Dương Kiều Minh nguyên là một công nhân kỹ thuật thuộc Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà, khoảng từ cuối những năm 70 đến hết những năm 80 của thế kỷ trước và thuộc thế hệ nhà thơ hậu đánh Mỹ. Bởi lẽ, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước kết thúc (1975) ông mới 15 tuổi...
Tôi thấy có một số câu thơ, khổ thơ hay trong thơ Việt, chúng ta có thể “chuyển thể” thành HaiKư. Nghĩa là chúng ta lược bớt những từ miêu tả, những tính từ, lược bớt các từ “đệm” thì sẽ có một bài HaiKư mới, anh em với khổ thơ kia, nhưng không phải là nó nữa. Tôi nhớ đã viết một bài ngắn về chuyện này. Và cũng đã thử nghiệm để cho thấy đây không phải là một đề nghị viển vông.
Thơ Kim Khánh vừa chỉn chu vừa bay bổng trong cách nghĩ, vừa truyền thống vừa sáng tạo trong biểu đạt. Đặc biệt nhất là quan niệm khỏe khoắn và tự tin trong tình yêu và cuộc sống của chị. Dường như đây sẽ là cá tính thơ Kim Khánh bởi nó xuyên suốt cả bốn tập thơ. Ả nàng vốn là con cháu mụ Dạ Dần, từ trong nôi ả nàng đã hít thở không gian của những giai điệu xường, rang lãng mạn, tha thiết
Trong “Sóng Độc” Trần Gia Thái phải là người hiểu sâu sắc về công tác tổ chức, mới viết có sức thuyết phục từ việc phân tích tình hình, cách dùng người, điều động, bố trí nhân sự tài tình của tổ chức, lãnh đạo tỉnh, bối cảnh được tác giả lồng ghép hợp lý cho bạn phải hồi hộp tò mò lôi cuốn mà đọc nghiến ngấu mong mau biết cách xử lý, giải quyết của lãnh đạo tỉnh cho hồi kết như thế nào …
Cùng với những trang văn bộn bề hiện thực, đầy xương xảu và dữ dội, thơ của Dương Thiên Lý là tiếng lòng đầy nỗi niềm tri kỷ của một người đàn bà giàu thương cảm, mê đắm, toan lo trên nhiều "gam tâm trạng" quyến rũ & đượm nồng...
Trần Ngọc Trác giống như một con ong cần mẫn, cứ gom góp, cứ thu lượm, cứ nâng niu cùng rất nhiều cảm xúc và những kỷ niệm về vùng đất và con người Đà Lạt để đến hôm nay mang đến một món quà rất ý nghĩa tặng cho bạn đọc và du khách gần xa. Khi họ đến với Đà Lạt, muốn tìm hiểu về thành phố ngàn hoa, để thêm yêu, thêm say hồn cốt Đà Lạt
Cái ý tưởng như thế này dường như tôi cũng đã đọc thấp thoáng ở đâu đó. Nhưng nhà văn Nguyễn Xuân Hải đã cho thấy bút pháp sáng tạo của riêng ông: ý tưởng chỉ là cái có sau, sự trải nghiệm từ cuộc sống của ông mới làm nên “máu thịt” của tác phẩm, vì thế mà “hơi thở” truyện của ông trở nên rất mới mẻ, tự nhiên, gây xúc động cho người đọc.
Đầu tiên phải kể đến cụ Nguyễn Du danh nhân văn hóa thế giới. Người đã viết “ Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Kiều dài 32 54 câu lục bát “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Dăm vị phẩm bình rằng Cụ truyền y bát thể thơ này cho Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Rồi Tản Đà lại truyền cho Nguyễn Bính. Nguyễn Bính truyền cho ai thì … khó thống nhất!
Làm gì thì làm nhưng “Xin đừng khuấy đục nước dòng trong”. Những mái chèo hãy nhẹ, những bán mua hãy nhẹ. Dưới đáy sông bạn tôi đang nằm. Dưới đáy sông những người lính năm xưa đang nghỉ. Hãy để các anh yên nghỉ với sự yên tĩnh và thanh thản của tâm hồn. Hãy để những dòng sông đừng bị vẩn đục vì bất cứ lý do gì .Dẫu hòa bình hôm nay là rất đẹp.
- Tác giả “Đồi thông hai mộ” đã kế thừa những cốt chuyện của truyện thơ tình dân tộc Mường vào sáng tác của mình. Ông đã dùng thể thơ song thất lục bát, các hình tượng văn học mới lạ, ngôn ngữ thi ca trau chuốt để dẫn dắt câu chuyện, cuốn hút người đọc, dễ nhập tâm so với các truyện thơ trước đó của dân tộc Mường (thường là theo lối hát Dang)