LỜI CẦU NGUYỆN CHO HỒ TÂY
Mỗi khi nhắc, nghĩ về một Hà Nội thì Tôi, và có lẽ cũng như nhiều ai khác mới hình dung thì đã lấp loang trong trí miền không gian sáng bừng đủ rộng để hoang mang, đủ dài để thương nhớ: Hồ Tây.
Một tọa độ mà các yếu tố văn hóa, lịch sử tan hòa vào cảnh sắc xóa nhòa các lằn ranh khái niệm trong lớp sương mù huyền hoặc nghìn năm cô kết thành năng lượng tinh thần để cho Hồ Tây có một linh hồn.
Hợp lưu của lớp lớp tao nhân mặc khách. Nơi gặp gỡ của chúng sinh phiêu dạt. Đến rồi đi, ai đó cũng được một chút gì của Hồ Tây in dấu tâm hồn, khắc ghi da thịt. Người đa mang day dứt, kẻ nợ ân tình…
Và Tôi chàng trai tỉnh lẻ năm xưa may cũng có chút Hồ Tây riêng mình. Một bông hoa cúc dại nở rụt rè trên bờ đất ngăn cách nơi thả sen và mặt sóng bời bời, sâm cầm dang cánh động chiều cửa Phủ.
Tháng Năm năm 1979, Tôi-chàng binh nhất từ Quân khu Tây Bắc xuôi Hà Nội tham gia trại viết văn về trận chiến biên giới vừa tạm qua trào khốc liệt. Trại viết lang bang hết mấy ngày trong thành rồi lại dinh lên mạn Hồ Tây dăm hôm. Chạy vòng.
Con đường Thanh Niên gầy mảnh như cánh tay vừa qua bạo bệnh giữa hai hàng cây cơm nguội bạc mốc khẳng khiu. Lưa thưa người xách túi vải thả bộ cúi gằm, người đạp xe ghì miết. Ặc ặc rú ga xe tải quân sự xơ xác lá nghi trang. Mới lửng chiều mà sương khói Hồ Tây đã nương nương, sóng ngời vệt rải quạt mặt trời. Mấy chấm đen rời rạc ném rủi cào ốc lom khom ven bờ cỏ…
Túi rủng rỉnh một tháng phụ cấp và mười hai đồng năm hào tiền nhuận bút bài viết đầu tiên in trên báo Quân đội, Tôi ngồi đợi người bạn lính cùng quê trong nhà hàng bán bánh tôm. Nói là bạn, nhưng anh hơn Tôi hai tuổi, vừa huấn luyện xong khóa sơ cấp đặc công hội quân bên Gia Lâm, chờ lên biên giới.
Hẹn có mặt trước mười bốn giờ, đã mười bảy giờ mà anh chưa đến. Thời đó, người ta có thể vào nhà hàng Nhà nước muốn ngồi bao lâu tùy thích mà không phải gọi món. Nhân viên cũng ngại hỏi quý khách dùng gì. Tôi muốn chỉ gọi món khi có mặt bạn cho long trọng mới xứng đáng với những đồng nhuận bút thiêng liêng. Hơn mười tám giờ anh hớt hải ào đến. Liếm mồ hôi nhỏ giọt, anh nói phải trốn trại. Thấy chiếc bàn còn trống trơn trước mặt, anh ngạc nhiên.
Tôi hùng dũng tiến lại quầy, nhưng hỡi ôi, những người bán hàng đang sắp sửa đổi ca. Những chồng cốc thủy tinh lăm tăm bọt khí dưới đáy những xác ruồi. Bếp than đã ủ. Mấy chiếc khay sắt tráng men chỉ còn vụn bánh, râu tôm, rau sống dập nát…Cửa hàng đã không còn thứ gì cho tôi mua.
Không biết vẻ mặt Tôi ra sao và Tôi đã thở than những gì.
Khi Tôi thờ thẫn quay lưng thì người thiếu phụ mặt buồn, mặc áo phin nâu cổ lá sen, bê ra một khay bánh tôm và chiếc bi-đông nhôm quân dụng. Những chiếc bánh không còn nguyên hình hài, những con tôm mất nửa đầu hoặc nửa đuôi.
- Đây là tiêu chuẩn bánh và bia của chị được mua lại khi hết ca. Bia vẫn tươi, bánh không đẹp nhưng rất ngon đấy…chị nhường lại cho hai chú bộ đội…
Bát nước chấm mới. Đĩa rau thơm mới. Thiếu phụ đứng xa bên rào chắn kín đáo quan sát chúng tôi ăn uống ào ào mà thở dài. Chưa xong mấy miếng bánh thì anh bạn nhìn đồng hồ hấp tấp quệt miệng vì phải về đơn vị gấp. Anh đến bên thiếu phụ bối rối cảm ơn và ấn tiền vào tay chị.
- Em ở đồng rừng, nghe nói bánh tôm Hồ Tây ngon nổi tiếng cả nước. Lần đầu tiên trong đời em được ăn đấy. Nói dại, không có chị thì có lẽ em đi trận chết mà chẳng biết vị bánh tôm Hồ Tây nó thế nào. Hì hì...
Đang đếm tiền, nghe đến câu cuối của anh, lập tức chị ấn trả sấp bạc nhàu.
- Em đi trận, tiền mang theo có làm gì đâu... chị...
Kéo Tôi lại gần, anh vỗ vỗ vai. Bỗng dưng Tôi cứ đứng ngơ ngơ. Khi tỉnh ra thì anh đã chạy ra đến mặt đường nhập nhoạng bóng cây cơm nguội…
Tôi không ngờ đó là lần đầu anh được ăn bánh tôm Hồ Tây và cũng là lần cuối Tôi gặp anh. Món tiền nhuận bút đầu tiên chẳng nhớ Tôi đã tiêu tán vào đâu nữa. Ba tháng sau Tôi rời trại viết ven hồ thì hay tin anh đã hy sinh trên sơn nguyên Hà Giang khi tái chiếm điểm cao 1509.
Tên anh, Lê Hồng Hương, người bạn học cùng tôi suốt cấp I đến cấp II…
Những ngày nhai bo bo trong ám ảnh khói súng ấy Tôi sở hữu cả mùa rực rỡ những sen trắng sen hồng bên cô học viên Quân Y nhà ông ngoại ở làng Nghi Tàm. Chiều chiều đạp xe lòng vòng quanh hồ nước thanh tĩnh buồn ngu ngơ như cánh chim nước chới với mặt sóng. Chân trời của Hồ Tây là một vệt mờ xanh, chấm nâu mái ngói. Ngắm mưa rào nhảy múa mặt hồ. Mùng Một ngày Rằm, Tôi thường theo trông giữ xe đạp cho cô cầu bái hết Chùa đến Phủ…
Số lượng ngôi sao năm cánh khắc lên gốc cây cổ trước cửa Phủ làm dấu ngày nào cô trốn học, ngày nào Tôi vướng sinh hoạt tổ ba người. Những lá thư lưu ở hòm thư chết, khắc bằng dao găm và cặp ba lá lên da cây…
Không nhớ đã bao Chủ nhật Tôi và người ta lang thang rồi cố tình lạc trong lối ngõ rải sỏi, ngõ nghiêng nghiêng gạch chỉ lát hay ngõ hồng mịn phù sa như mê cung, trên cao xanh ngời những na, những roi hồng roi trắng, hồng xiêm trong ngan ngát buồn hương của hoa sói hoa ngâu hoa cau và những cơn gió đẫm tinh hương sen tẩm thơm cả quân phục lính đẫm mồ hôi.
Ngợp đau lồng ngực khi hai bàn tay mềm mát rùng mình bất ngờ giữ khuôn mặt Tôi trong bóng ngả bức tường. Ôi, ngón thơm mê dài. Nàng long lanh thì thầm mấy âm tiết rời chậm, cố tình không cho Tôi nghe thấu, nội dung của nó mãi còn bí mật.
Mái ngói rêu ẩn hiện sau hàng rào râm bụt, hiên nhà lơ lửng giò lan, vại nước mưa xếp ngang cán gáo dừa. Tiếng chim cu gáy giọng thổ ánh kim bị ngắt chừng bởi tiếng quân cờ chém sỹ chiếu tướng chan chát.
Trong ngôi nhà cổ tường gạch Bát Tràng, câu đầu, xà cột, rui mè, quá giang, bẩy, kẻ gỗ mít chạm lộng, trường kỷ gụ và những đồ đồng ám màu nhang khói, Tôi đã hong hóng ngồi chịu chuyện ông lão ngoại tám mươi. Ông lão cổ xưa thường thấy trong văn Nguyễn Tuân.
Nỗi ưu hoài quanh câu chuyện Không Lộ đúc chuông hay bức ảnh sém vàng thời đồn binh Pháp, những lầu son gác tía từng soi bóng Hồ Tây cùng húy kỵ của những triều vua mà bây giờ chỉ còn thiên nhiên sản vật cảnh sắc Hồ Tây với dấu tích đền đài thờ phụng Thần Phật và những người có công hộ quốc độ dân.
Khỏa giữa sen trắng sen hồng nàng Hồ Xuân Hương rày rày tuổi mười sáu tắm dưới trăng mõm mòm để ngẫn ngờ gieo cho bao chàng ngốc mấy trăm năm. Mùa thu xanh mà chiều sương khói sóng, chàng Nguyễn thả thơ tình Nàng bán chiếu gon, Hồ Tây đã chứng cho mối tình đẹp thiên thu và oan khuất thiên thu...
Con hồ linh thiêng đã sàng lọc và hóa giải qua thời gian mọi vết nhơ của chúng sinh bằng nguồn nước trong lành tự nhiên và an ủi nuôi dưỡng chúng sinh bằng sản vật sinh ra từ cơ thể mình.
Biết Tôi tập tọng văn chương, một lần ông lão đã hỏi Tôi về người câu cá dị thường. Tôi chưa ận ừ thì ông đã gay gắt.
- Nói ông ta trộm cá là vô lý. Cá Hồ Tây là của trời đất. Trời đất ban cho con người thứ người ta cần. Mỗi ngày ông ta chỉ lấy đủ dùng cho mình, nhưng cuốn sách của ông ta viết thì lại làm giàu có cho bao con người. Người ta có biết rằng chính họ đã không công bằng khi lấy mất cả một cuộc sống bình thường của một con người ?
Thì ra tác giả của Vượt Côn Đảo ở sau đình làng. Một ngôi nhà lợp lá, nền đất và những chiếc ghế ghép cành ổi nhì thấy rõ qua cánh cửa mở toang. Cô sinh viên Quân Y đã dẫn Tôi xem nhà văn Phùng Quán. Chúng tôi không dám bước vào mà chỉ đứng bên ngoài bờ dậu cúc tần. Người đàn ông vẻ lam lũ gió sương, chưa già lắm nhưng chòm râu luôm nhuôm bạc, quần ta xén ống, áo ba ba phanh ngực, khuỳnh chân tu rượu từ chiếc vỏ chai bia Hà Nội nhấm với mấy ngó sen sống trắng ởn…
Người đàn ông gọi là Phùng Quán bỗng quay lại. Bối rối kéo tay Tôi khỏi rặng cây cúc tần, nàng nhận xét và cật vấn.
- Ông ta hiền lắm, thích trẻ con. Gặp ai nói gì cũng chỉ cười hề hề. Có người bảo ông ta xấu, nhưng một người yêu trẻ con thì không thể là người xấu. Anh có thích trẻ con không?
Ngày đó Tôi đã không thể trả lời nàng, trả lời những câu hỏi của chính Tôi về Hồ Tây. Và về Phùng Quán.
Tôi nhớ mỗi câu chuyện hay từ ông lão hình như lúc nào cũng phảng phất mùi giấy bản mùi nhang khói, mùi chè Thái ướp hoa sói, mùi rượu sen, rượu nếp cái hoa vàng.
Tôi được biết rằng các bậc văn nhân ngày trước quanh Hồ Tây, thích uống chè Tân Cương Thái Nguyên ướp hoa sói. Hoa sói mới sành. Hoa sói cũng có gạo trắng li ti bám theo chiều dọc cuống hoa. Sói thân thảo, lá hao hao lá chè tươi, mọc khóm nhỏ ngay bậc hè hay đầu thềm lên xuống.
Cả khóm một mùa hoa sói đương độ cũng chưa bằng lượng gạo của hai bông sen. Hoa sói, hương thanh tịnh, tao nhã, ẩn tàng hương sắc đằm thắm kiểu thị thành.
Còn rượu. Hạt sen già của Hồ Tây bóc vỏ đồ chín cùng gạo nếp cái hoa vàng Hưng Yên rồi mới gia giảm men bắc. Thứ rượu chỉ nhắm với lạc hoặc cốm Vòng hay là nộm ngó sen là đúng cách, không thì nhắp suông đọc thơ cũng phải nhẽ.
Chay tịnh trường nhạt thì đã sẵn ốc đá vỏ xanh trầm. Mỗi lá bưởi bánh tẻ cuốn một con ốc đá dùng gai bưởi ghim giữ, mỗi mẻ hấp khoảng mười con trong chiếc niêu đất nhỉnh hơn vốc tay trên hỏa lò đặt giữa chiếu. Nước mắn cốt Vạn Vân, gừng tươi, hạt mùi khô nghiền mịn, vị cay cà cuống Hồ Tây. Khêu ốc thì phải lựa gai bưởi xanh nguyên, mập, thẳng đều, rồi một lượt mấy chiếc sắp đầu nhọn nhao qua lửa, để lửa làm cứng gai, đồng thời bỏ bớt phần mũi quá sắc. Gai bưởi chạm vào môi, lưỡi êm lành, tấu thêm hương tinh dầu bưởi vốn đã ôm ấp con ốc làm thuốc từ lúc lên nồi, xua đi vị tanh tao giống loài sống bùn.
Gai được thay sau mỗi tuần ốc hấp.
Rượu thuốc dành cho công tử Hồ Tây hay đi sớm về khuya dưới phố cổ được chưng cất từ nguyên hạt sen khô già. Rượu cất đậm độ thả nùi thuốc lào hút dở cũng phải bùng cháy. Rượu đó ngâm với chân sâm cầm và hai hạt ngọc của chim đực cùng tim của chim cái trong hũ sành, nút chặt bằng lá sen phơi khô, trữ ít nhất ba năm trong bóng tối râm mát mới nên dùng.
Đã ba mươi năm, Tôi nghĩ rằng mình vẫn nợ ông lão những điều ngay cả người Hà Nội chẳng mấy để ý. Có lẽ ông là cuốn bách khoa sống cuối cùng về một đời sống trầm tích miền Hồ Tây.
Sen trên Hồ Tây năm đó tàn xong thì ông lão mất. Mất lúc đang uống trà thì nghe tin đứa cháu trai, hy sinh ở Lạng Sơn. Tôi nhận được thư của cô học viên Quân Y báo tin về ông ngoại và anh trai mình. Và tái bút: Em đã đi lễ Phủ lễ Chùa khấn nguyện bình an cho anh.
Sau này khi biết so sánh làng của ngôi nhà vườn xứ Huế hay những ngôi nhà đồi trung du cô lẻ, những ngôi nhà miệt vườn Nam bộ phóng khoáng bốn phía gió lùa thì Tôi vẫn không thôi dành yêu mến kính trọng và ấm áp những xóm làng ven Hồ Tây.
Nhà cách vườn đôi khi chỉ là quy ước của một gốc bưởi, gốc na, mỗi vòm cổng kết một vòng cung nghênh khách xanh đỏ râm bụt hay xanh vàng hoàng hoa lan. Thi thoảng mới gặp ngọn tre khô, nứa tép, mảnh tre cắm để cho mồng tơi và mướp đắng làm chỗ nương tựa hơn là ý định ngăn rào…
Thế mà người nông hay người thợ thủ công của kinh thành Thăng Long ven Hồ Tây thì không bao giờ nhón chân qua cái bờ rào mong manh ấy hay tự tiện bước qua vòm cổng mà không hắng giọng, bữa lỡ cần chút nước mắm, khi khách xa chợt đến thiếu mấy cánh chè.
Một không gian văn hóa Hồ Tây gia phong nề nếp và điềm tĩnh.
Xin cảm ơn Hồ Tây chút nữa đã cho Tôi mối tình đầu.
Cô học viên Quân Y năm xưa giờ vĩnh cư nước ngoài. Làm chuyên gia y tế một nước Bắc Phi rồi nặng lòng với người đàn ông Việt phiêu dạt. Chồng nàng ngày ngày xâu những bông hoa nhài thành chuỗi bán cho khách du lịch. Mỗi đàm thoại ngắn, mỗi email hình như đận nào cũng hoen nước mắt nhớ Hồ Tây.
Ngôi nhà cổ của ông ngoại nàng chỉ còn trong ký ức như câu chuyện con trâu vàng lặn ngụp nơi đáy nước. Người câu cá kỳ dị cũng đã hóa làm kiếp cá. Bí truyền nhục thể bà Chúa thơ Nôm thủy táng dưới hồ, nam sinh vẩn vơ qua đây hay ngã. Thiên tình chiếu gon mặt trời tỏa soi thấu lòng hiếu quốc, cơn sóng dài phân vân còn đấy mấy ngậm ngùi.
Bờ bê tông đã thay mép cỏ. Sen cũng gầy và bớt thắm, sâm cầm thưa bay lại. Sương mù mau tan, gà không muốn gáy cữ định ngày. Ốc đá xanh lại đem hấp thuốc Bắc, những mảnh tôn hoa tam giác như phi tiêu khêu ruột.
Khỏa tay xuống nước hồ không còn ai dám rửa mặt, dẫu cho nước hồ ai đó đã định thay. Nhiều ngại ngần vắng thưa viếng Chùa lễ Phủ, lại đến lượt Tôi bây giờ cầu nguyện cho Hồ Tây.
Và… những vết khắc ngôi sao hằn sẹo quanh gốc cây cổ, bỗng một ngày lại tươi mới cánh sao.
Bóng ai đó xanh đang đi lên phía Dinh Đào.
Tôi đang đứng ở bên hồ mà vẫn thương nhớ Hồ Tây.
Tháng 9 năm 2007
N.T.T.K
*“Rút trong tập tùy bút: Dặm ngàn hương cốm Mẹ - 295 trang khổ 13,5 x 20, 5-Nxb Phụ Nữ 2011”
*“Tuyển vào Văn bản đọc hiểu Ngữ Văn 11 bộ Cánh diều 2022.”