Vương Tâm
NHÀ THƠ PHÙNG TRUNG TẬP
NHỊP ĐIỆU MỚI TRƯỜNG CA QUÊ MẸ
Phùng Trung Tập làm thơ đã lâu. Thơ anh in rải rác từ thập niên 80 đến nay đã chừng 40 năm. Anh liên tiếp cho ra đời những tập thơ có dấu ấn riêng trong hơn hai mươi năm qua. Nhà thơ đã có những giải thưởng văn học của Hà Nội và là gượng mặt thơ giầu cảm xúc. Phùng Trung Tập vừa trầm tĩnh với những sóng lặng về nhân tình thế thái lại vừa ấm áp chân tình, yêu thương cuộc đời và luôn trăn trở với quê hương đất nước. Thơ của Phùng Trung Tập có nhiều cung bậc cảm xúc với các đề tài khác nhau. Có nhiều thi phẩm đậm yếu tố dân gian truyền thống. Bên cạnh đó nhà thơ lại có những thi phẩm xuất sắc mang yếu tố triết luận có tính dự báo mang tính thời đại.
Cuộc đời nhà thơ Phùng Trung Tập đầy trải nghiệm và không ít sóng gió trong cuộc sống. Từng là một chiến sĩ từng cầm súng chiến đấu nhiều năm trong chiến trường miền nam thơ anh có sự khắc khoải về dân tộc và trầm luân về cuộc đời. Cùng với đó là niềm hy vọng bay bổng đầy lãng mạn trong cuộc chiến đầy cam go và thử thách khốc liệt. Sau này trở thành nhà khoa học, một tiến sĩ pháp lý được đào tạo ở nước ngoài, thơ Phùng Trung Tập lại chất chứa bao suy tư và trăn trở thế sự. Từ đây những ký ức chiến tranh đã được nhìn nhận sâu sắc hơn về vận mệnh thiêng liêng của đất nước. Từ đây góc nhìn về nhân tình thế thái đậm triết lý nhân văn. Và cũng từ đây tình yêu quê hương cùng cha mẹ vợ con đã được thể hiện trong thơ Phùng Trung Tập với giọng điệu tha thiết và trong sáng thấm đẫm tình yêu thương.

Tập trường ca “Quê mẹ” là tác phẩm mới nhất của nhà thơ Phùng Trung Tập đã đem lại cho tôi những cảm xúc mới lạ. Anh không muốn dừng lại những đoản khúc thơ với những ý tứ chặt chẽ khúc triết mà đã từng đeo đuổi mấy mươi năm qua. Nhà thơ muốn thử sức mình với một thể loại dài hơi và trầm mình trong mạch nguồn thơ ca không ít cam go này. Anh đã đọc những trường ca trước đó của các nhà thơ nổi tiếng và những trường ca dân tộc để tìm hiểu và muốn có một cách viết của riêng mình. Sau bao lâu trăn trở trường ca “Quê mẹ” đã ra đời trong sự hân hoan những không kém phần hồi hộp. Nhà thơ chỉ coi đó là món quà dâng tặng mẹ và quê hương mình. Một trường ca đã gửi gắm bao tâm sự và kể lại câu chuyện cuộc đời mình. Một cuộc đời luôn gắn bó với cánh đồng làng và con sông Kinh thầy thơ mộng. Trục cảm xúc được vận động chung quanh hình ảnh mẹ và quê hương đất tổ. Những mạch thơ cuốn hút tôi với những cảm xúc và nhịp điệu mới lạ trong những chương hồi của trường ca. Tôi đọc và đông hành cùng anh với bao ký ức tràn trề.
Phùng Trung Tập tránh được nét tự sự, kể chuyện hay luận đề của sử thi và những tác giả trước đó. Anh có cách viết của riêng mình khi hòa tan những ký ức theo trình thức thời gian cùng với sự đồng hiện theo bố cục được định hình do cảm xúc chi phối. Cách viết ấy xóa nhòa được lớp lang sáo mòn. Cách viết ấy bao nỗi niềm được bày tỏ có sức ám ảnh và bất ngờ qua những hình ảnh và nhịp điệu thơ uyển chuyển. Khi êm đềm ngọt ngào như những khúc dân ca đồng chiêm bên lũy tre làng. Khi lại cuồn cuồn như sóng nước dâng cao. Và khi lại thâm trầm tê tái qua những mất mát xót đau…Mười một chương được dựng trong trường ca “Quê mẹ” đã bổ sung cho nhau tạo nên bản giao hưởng bằng những nhịp điệu biến hóa. Phải nói đó là sự khởi đầu thành công của một trường ca mang tính khái quát nêu bật chủ đề đất nước đầy biến động và chuyển mình sang những trang lịch sử mới thông qua hình tượng người mẹ thân yêu mà tác giả đã trao gửi trọn vẹn cả cuộc đời.
Trục cảm xúc của trường ca phát triển chung quanh hình tượng người mẹ và quê hương. Hai hình ảnh này luôn luôn hòa nhập với những ký ức sâu sắc mà tác giả đã nặng trĩu tâm tư bao lâu nay. Những hình ảnh quê hương với con sông Kinh Thầy đã làm xao động tâm hồn tác giả với những khổ thơ đầy nồi niềm. Ta có thể đọc bất cứ chương hồi nào hình ảnh quê hương nhà thơ cũng đau đáu tình yêu thương:
“Kinh Thầy mưa tự ngàn xưa
Giăng giăng sợi nắng sợi mưa khoảng trời
Trải lòng giọt giọt mưa rơi
Đất lành nguồn cội mưa tươi từng mùa”
Và đôi khi nhưng hình ảnh chân thực quê kiểng vẫn hiện về trong ký ức nhưng lại thấy thân thương:
“Người làng quý trọng người tính nét đẹp hơn khuôn mặt đẹp
Những cô gái đắt chồng ngực nở mông to
Khỏe gánh gồng, mắn con đẻ cái
Bàn chân dày năm ngón xòe ô”
Rồi lại khi hình ảnh quê hương hòa tan vào chân dung mẹ mà tác giả luôn thấy ấm lòng:
“Mẹ sinh ra con giữa đêm mưa bão
Nhà gỗ bốn gian tụt rạ mái che
Then cài cửa cong bập bùng gió dập
Giường chiếu co thân vách đất tụt bè”
Hình tượng về mẹ và quê hương cứ thế quấn quýt và phát triển qua những kỷ niệm và sự trải nghiệm của tác giả. Từ tuổi ấu thơ đến khi khoác ba lô lên đường lao vào cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc hồn thơ của tác giả luôn hướng về mẹ và con sông quê. Nhà thơ đã gây xúc động cho người đọc khi đi thăm bạn ở nghĩa trang. Hình tượng mẹ lại hiện lên với nhịp điệu ngậm ngùi:
“ Hai trăm chín mươi mốt sinh viên người lính
Hóa thân vào đất Mẹ bao la
Không một nấm mồ riêng
Không một tấm bia ghi tên tuổi quê nhà”
Rồi những lúc ở tận chân trời góc bể xứ người nhà thơ cũng hoài niệm về quê hương và nhớ đến hình ảnh mẹ:
“Chiều về giữa Mạc Tư Khoa
Nôn nao nghe điệu dân ca xứ người
Tình thương của Mẹ trên đời
Tạo ra cả một bầu trời thơ con”
Mỗi chương tác giả lại tạo nên một nhịp điệu ký ức Quê mẹ. Hình tượng Mẹ được phát triển và hóa thân vào sự sống và sự biến động của đất nước, chiến tranh và dựng xây. Đó là sự mở rộng của hình tượng cùng với cảm xúc khi thì trầm ấm, khi lại triết lý và khi lại dịu dàng của tác giả. Nhịp điệu thơ mỗi lúc một biến hóa để triển khai hình tượng được nhiều ánh sáng quy chiếu khác nhau. Có lúc tác giả thể hiện hình ảnh mẹ hiện lên trong nỗi cô đơn:
“Từ ngày Mẹ phải đi xa
Trong con thiếu một Thiên hà. Mẹ ơi!
Con là đứa trẻ mồ côi
Muôn ngàn sau có tái hồi hay chăng?”
Lại có lúc người mẹ trở nên huyền ảo lung linh trong giấc mơ nhưng gây xúc động sâu sắc:
“Thấy mẹ con muốn đến bên
Mà chân cứ rối phía trên vướng người
Bỗng nhiên con bay lên trời
Nhưng đôi cánh lại rã rời…mưa tuôn”
Tình cảm xa cách chia ly còn được tác giả hòa nhập vào dòng sông Kinh Thầy với những hình ảnh xao lòng:
“Thời gian như nước theo dòng
Chia ly mặt song chau từng nếp nhăn
Đôi bờ bồi lở đục trong
Quặn lòng bọt trắng sóng gầm biệt ly”
Nét huyền ảo ấy đan xen trong từng chương hồi. Nhất là khi những tâm tư của tác giả hướng tới tầm khái quát về đất nước và lịch sử. Nhà thơ đã viết:
“Dòng trôi chẳng thể quay về
Phương trời ngun ngút lời thề năm xưa
Phận người như những giọt mưa
Dòng trôi lịch sử sóng lùa nổi nênh!”
Nhịp điệu của trường ca còn được tác giả viết đan xen những lời hát dân ca bổ sung cho nét cân đối trong những hình tượng trong “Quê mẹ”. Khi đó những câu thơ trở nên phong phú về cung bậc tựa những khúc thức trong âm nhạc. Sự tìm tòi này đem lại nét riêng tạo sự hòa nhập cảm xúc giữa người đọc và tác giả. Gọi được sự đồng hành song phương đó cũng là một thành công của tác giả. Hơn thế nữa ngoài nhịp điệu uyển chuyển và linh hoạt về thể loại trong từng chương hồi, tác giả còn có thể hiện được những nét đáng khích lệ về nghệ thuật ngôn ngữ thi ca. Không ít những thi ảnh đậm tính huyền ảo hiện lên trong các phần sáng tạo đậm đặc hình ảnh Mẹ và Quê hương.
Ta có thể bắt gặp những câu thơ gợi cảm gây xúc động cho người đọc với những thủ pháp so sánh, liên tưởng đầy ẩn dụ trong các chương hồi như: “Nông dân đánh đổi cuộc đời. Cấy trồng bạc phận rơm tươi mùa màng”. Hay hình ảnh quê hương người đọc sẽ cảm nhận một cách ngỡ như vô thức nhưng lại gợi sự đồng điệu trong tâm hồn: “Hương quê trong khoai ngọt. Hương quê trong rạ rơm. Hương quê hạt gạo đỏ. Ao bùn ngái ngõ sương”. Hay khi vẽ chân dung mẹ nhà thơ cũng có nét phiêu ảo diệu gây ấn tượng:
“Mẹ không son phấn tân thời
Không yếm thắm, chẳng váy sồi, hài cong.
Đơn sơ cánh áo nâu sồng
Chân ôm guốc mộc, môi hồng…trầu cau”
Hình ảnh mẹ trên nền cảm xúc đó luôn hiện lên trong ký ức trào dâng. Tác giả viết: “Cơi trầu bên Mẹ đêm đêm. Lo toan nồng phận trầu têm hương trời”. Hay mỗi lần về quê tác giả luôn luôn nhớ đến người mẹ tần tảo sớm hôm trên sông Kinh Thầy:
“Con về lặng lẽ bên sông
Cây đa, bến cũ người không thấy về
Gió lùa sông nước tái tê
Mẹ về có kịp đò khuya cuối ngày”
Dần dần qua mỗi lớp lang hình tượng Mẹ được khái quát hội tụ trong những ảnh hình quê hương đất nước. Tác giả đã có điểm nhấn với sự chuyển động con sông quê hương để bày tỏ ý tưởng sâu sắc về Mẹ. Nhà thơ viết: “Sông mài miết tự rửa mình năm tháng. Nguyện cưu mang muôn tâm sự non ngàn”. Hoặc tác giả còn mở rộng ý tưởng trong khổ thơ:
“Hồn nhiên xanh những cánh đồng châu thổ.
Sông sẻ chia tươi mát mỗi chồi non.
Sông lặng lẽ chứng nhân dòng lịch sử.
Hưng-Thịnh-Suy-Vong bạc sóng hạ nguồn”.
Trường ca “Quê mẹ” là một sự phát triển đáng khích lệ trong quá trình sáng tác của nhà thơ Phùng Trung Tập. Nhà thơ đã có nét mới trong thể loại trường ca bằng sự chuyển động của nhịp điệu trong từng chương đoạn. Hình tượng Mẹ-Quê hương-Đất nước có sự thống nhất trong chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Với ý thức công dân sâu sắc trong tư tưởng, nhà thơ Phùng Trung Tập luôn có cảm giác mình mặc nợ với cuộc sống. Đó là những khoản nợ trần gian. Nợ Mẹ. Nợ Cha. Nợ đồng đội. Nợ quê hương. Thật xúc động khi tác giả viết: “Xương máu chiến tranh tàn cỏ lại xanh. Đất thay áo bao nấm mồ liệt sĩ. Thác suối lệ vành khăn tang chiến lũy. Khoản thơ nào còn thiếu nợ chiến binh?”. Và cuối cùng tác giả đã bảy tỏ nỗi niềm sâu thẳm của mình về Quê mẹ với sự trăn trở: “Nhà thơ còn thiếu nợ nhân dân. Lam lũ cấy trồng duyên rơm phận rạ. Sau mùa gặt bần thần gồng gánh. Vỏ trấu nào rữa vụn dưới mây trôi”. Sự thành công của trường ca “Quê mẹ” nằm ở trục cảm xúc sâu nặng về quê hương và ý thức công dân sâu sắc; Cùng với sự chuyển động của nhịp điệu thơ đa dạng và phong phú về nội dung làm nổi bật hình tượng nghệ thuật thi ca.
2020
V.T