THAO THỨC PHÍA BÈ TRẦM
(Đọc thơ Nguyễn Đức Bình)
NHÀ THƠ LÊ ANH PHONG
Sau hai tập thơ “Heo may” và “Tiếng cỏ đêm”, bước sang
tuổi 80, nhà thơ Nguyễn Đức Bình ra mắt thi tập thứ
ba: “Khói trầm ngược gió”. Có thể nói, thao thức phía bè trầm
là nét cơ bản trong âm hưởng thơ Nguyễn Đức Bình, một
cựu binh, một nhà thơ của vùng quê Đất Cổ Hưng Yên.
Thực ra, lục bát, thể thơ mà anh yêu thích, luôn là thử
thách lớn với thi nhân trong sáng tạo và đổi mới. Giọng
trầm, vần điệu của 6/8, thế sự và tình yêu, đó là những
thành tố cơ bản tạo nên thơ Nguyễn Đức Bình. Dường như
anh không chịu ảnh hưởng cảm quan của dòng thơ tình
thời chiến. Có lẽ, trước 1975, rất hiếm gặp những câu thơ
viết về tình yêu như trong “Tìm em”: “Em còn giặt chiếu bờ ao/
Cây sào đập vụn ánh sao chân cầu”. Tất nhiên đây là thơ hậu
chiến, nhưng thói quen trong cách nhìn, trong tụng ca, hoan
ca đã khiến không ít nhà thơ thế hệ của anh vẫn chưa thoát
khỏi giọng đồng ca, mỹ cảm của một thời.
“Ngày về” hiện lên khá nhiều trong các thi tập. Nhưng,
sự trở về căn cốt nhất trong thơ Nguyễn Đức Bình, là trở về
trong tinh thần phản tư của thao thức hiện sinh. Trước sự tha
hóa, thật giả lẫn lộn, không còn là tiếng thở dài thường thấy
như trong thơ của các nhà nho xưa, không né tránh, nhưng
cũng không cao giọng, chữ nghĩa như tra vấn hiện thực: “Vỡ
bờ tức nước vì đâu/ Trời sao mưa thế làm đau quê nghèo”. Cứ
ngỡ rằng, từ chiến thắng trở về, điều gì cũng thấy đẹp, cũng
hân hoan... Giây phút ấy qua nhanh, “Tiếng chuông chùa”
hay tiếng lòng xa xót đồng cảm đồng đội: “Từ trong khói lửa
bước ra/ Nhìn trăng trăng tỏ/ Nhìn hoa hoa hồng/... Gặp em tải
đạn rừng xưa/ Xế chiều quét lá cửa chùa tụng kinh/ Khói nhang
cầu phúc chúng sinh/ Adi đà Phật! Phận mình cầu ai...”. Trong
cơn gió heo may chuyển mùa, trăng trong đêm thề nguyện
đã khác rồi: “Đã nghe lá rụng, trăng thề bớt trong”. Áp sát
đời sống thực tại, không còn lộng lẫy trong mơ mộng, chữ
nghĩa xa lạ với véo von ngôn tình. Trong thơ Nguyễn Đức
Bình, lời thề hiện lên khá nhiều, nhưng được nhìn từ nhiều
hướng. “Lời thề” có lúc như “thuốc thử” con người với thời
cuộc, nhưng có lúc trở thành biểu tượng lý tưởng của một
“thời xa vắng”, nhiều khi trớ trêu số phận con người, đặc
biệt người phụ nữ có người yêu ra trận không trở về, thời
gian vô tình bạc dần trong ánh hào quang cứ vây kín ẩn
ức lời thề: “Người quê giữ trọn tình quê/ Đạn bom đã tạnh tóc
thề hoa râm/... Ngọn đèn khêu tỏ trong đêm/ Bóng mình mình
tựa bắt đền ai đây...”. Vẫn còn đâu đây những bóng hình,
những mảnh vỡ trong thơ. “Bóng mình, mình tựa”, chênh
chao, thăm thẳm cô đơn, lời thề ấy của một thời có lẫn vào
bóng của tượng đài vô danh. Và có một “Tình xưa” dưới
góc nhìn của ngày hôm nay: “Cái thời chín nhớ mười mong/
Đã thành bong bóng xà phòng mỏng manh/ Nặng lời thề thốt em
- anh/ Thế rồi xa cách lạnh tanh câu thề/... Nay là mai của hôm
qua/ Nhặt gom mảnh vỡ làm quà tình xưa”. Còn đây, “Trước
cửa chùa Tam Thanh”, bài thơ của con đường và đức tin, hay
là bài học từ ký ức. Không ồn ào, thơ anh lặng lẽ mà thâm
trầm, ngược sáng, bởi cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh
cá nhân: “Vì chưng vụng dại đường tu/ Nửa đời đi mãi mây mù
chưa tan/ Mấy lần tắm suối giải oan/ Tin là như thế. Nhưng toàn
viển vông/... Em về lễ hội Tam Thanh/ Phật trên tam bảo chưa
lành vết thương”. Câu thơ của tự vấn hay đối thoại với đời
sống, với thời cuộc. Thực ra trong quá trình chuyển đổi hệ
hình thơ Việt Nam sau chiến tranh, câu chuyện này không
mới. Nhưng biểu đạt như thế nào lại là dấu ấn của cá nhân
trong sáng tạo.
Phần lớn không gian và thời gian trong thơ Nguyễn Đức
Bình thuộc trường cảm thức của “thương nhớ đồng quê”, của
sự trở về. Trở về trong ký ức, trong hoài niệm, ngay “cái nắng
vẫn nắng ngày xưa”, “vẫn bờ ruộng cũ mà không thấy người”.
Trở về với bản sắc, trở về từ nỗi nhớ: “Tha hương thương kẻ
chiều nay nhớ nhà”, “Nhìn tre ru gió nhớ đường về quê”, “Nhớ
con sóng cũ vỗ nhàu lòng sông”... Có một miền thương nhớ,
hoài niệm trong lục bát Nguyễn Đức Bình. Tuy xa quê rất
lâu, sống trong không gian đô thị, nhưng ngôn từ lục bát
trong thơ anh vẫn đậm đà phong vị thôn hương, ca dao,
thành ngữ, tục ngữ. Biết bao hình ảnh thân quen của vùng
châu thổ sông Hồng hiện lên trong thơ: Cánh đồng, con đê,
bờ tre, giàn trầu, đò ngang, mái tranh...
Không chỉ trong tình yêu, “Ngày về” có mặt phía góc nhìn
thế sự. Đó là sự trở về trong tâm tưởng, trong tự vấn và cảm
luận. “Ngày về” cũng là tên một bài khá điển hình cho tạng
lục bát, cho nội dung cơ bản thường trực trong thơ Nguyễn
Đức Bình: “Bảng vàng bia đá cũng mòn/ Huân chương rồi bạc
mãi còn nỗi đau/ Cỏ xanh xanh mướt một màu/ Đau oằn chín
khúc vò nhàu lòng son/ Trường Sơn nắng lửa mưa bom/ Vết
thương là của hồi môn chiến trường/ Ngày về về lại cố hương/
Nửa con mắt trái dò đường đổi thay/ Gập ghềnh chạm vạt cỏ
may/ Vấn vương níu chặt găm đầy bước chân/ Gió làng lạc giọng
người thân/ Nghĩa trang xóm đã bao lần khói bay/ Ai người cắt
cỏ nơi đây/ Nghiêng vành nón trắng khóc ngày sang sông/ Nỡ
ôm nước mắt theo chồng/ Gửi dòng lệ đắng người không còn
về/ Sông nghèo vỗ vẹt chân đê/ Tấm bia mộ mẹ! Đây quê hương
mình!”. Trở về từ Trường Sơn, từ con đường huyền thoại
của máu, mang trong mình chất độc da cam, người thương
binh - nhà thơ ấy, lại bước vào con đường của thời bình
mà xao xác, ngổn ngang nỗi niềm. Bài thơ thảng thốt trước
ấm lạnh cõi người và cõi mình. “Huân chương rồi bạc, mãi
còn nỗi đau”. Sự thật đời sống và số phận con người là hai
phẩm chất cốt yếu của văn chương, của thi ca muôn thuở.
Không giáo điều, sơ lược, nhưng cũng không cực đoan thê
lương tăm tối, thơ Nguyễn Đức Bình nhiều nghĩ ngợi và
thấm thía. Nhạy cảm với thời cuộc, đọc thơ anh, nhiều khi
linh cảm có cái gì đó không yên lòng: “Ai tin giăng sáng cuối
chiều/ Máu đâu nước lã. Nói điều viển vông”. Nhạy cảm với
nhân thế, chỉ là “Phơi áo” mà biết bao buồn vui trong nắng
gió: “Phơi là phơi lại cuộc đời/ Để hong hơi ấm từ thời xa xưa”.
Hiện thực trong thơ là hiện thực của suy tư, phản tư. Thay
cho cảm hứng lãng mạn và cái nhìn sử thi, thay cho “bè
cao”, thay cho đại tự sự, thơ anh chọn phía “giọng trầm”,
hướng đến góc khuất của thân phận, hướng đến cảm hứng
đời thường. Trong mảng đề tài này, tiếp thu những giá trị
của văn học thời kỳ đổi mới, thơ Nguyễn Đức Bình tiếp cận
cuộc sống với điểm nhìn hôm nay, điểm nhìn của chiều sâu
nhân bản.
Mạch trữ tình thường nghiêng về phía cần lao, phía mồ
hôi nước mắt, nghiêng về phía người phụ nữ. Rất nhiều
những hình ảnh tương quan, tương phản hiện lên cùng âu
lo, mơ hồ dự cảm: Đi - về, sáng - tối, cũ - mới, quá khứ - hiện
tại, giàu - nghèo, buồn - vui, mất - còn...: “Ngày xưa đồng lúa
chín vàng/ Bây giờ cỏ mọc ngút ngàn bờ lau”, “Ra đi bùn níu
bước chân/ Ngày về với đất hóa thân vào bùn”, “Trường Sơn thuở
ấy xa rồi/ Ra đi mắt ướt sao trời cùng đi/ Bây giờ cửa Phật từ bi/
Còn ai ngày ấy ra đi không về”... Hình ảnh người mẹ trong
thơ Nguyễn Đức Bình rưng rưng và ám ảnh, nhắc nhớ một
thời không quên: “Và tàn ba cuộc chiến tranh/ Lưng mẹ dấu hỏi
đã thành dấu than”, “Nắm xương bọc tấm vải cờ/ Mẹ ngồi như
tượng bên bờ nhân gian”.
Trong thơ anh đôi lúc vẫn còn thi ảnh cũ từ ước lệ. Có lẽ
người đọc hôm nay chờ đợi nhiều hơn những khoảng trống,
những vùng mờ ảo của biểu đạt trong ngôn ngữ thơ.
Thơ đọc trong đêm, có một giọng trầm thao thức phía
trăng lên...
Tháng 6/2024
Người gửi / điện thoại