Cầm Sơn
SÍN LỦ
Lời tác giả: Qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, Rất nhiều những chiến binh đã trở thành Thương binh, Liệt sĩ. Công lao của họ đối với Tổ quốc đã được Nhân dân dựng tượng đài “Đời đời nhớ ơn Liết sĩ”. Nhưng vẫn còn có những Liệt sĩ vô danh, họ âm thầm trong bóng tối, sự hy sinh của họ không được người đời ghi nhận. Truyện ngắn này xin thay một nén tâm nhang cầu mong anh linh các Liệt sĩ ấy được siêu thoát cõi Vĩnh hằng cực lạc!
1.
Đám cưới của Giàng Sín Lủ với viên trung uý đồn trưởng Đồn Mù người Pháp Benjamin Fouché không chỉ ngỡ ngàng cho thanh niên bản Măng mà còn làm chấn động dư luận khắp cả xứ Mường Kịt. Thực ra thì trước khi làm đám cưới với ngài đồn trưởng người Pháp, Sín Lủ chỉ mới gặp mặt Fouché một lần trong dịp tết Síp xí của người Thái nhưng chưa hề có trao đổi, giao lưu gì chứ đừng nói là yêu đương hoặc cảm mến nhau. Rồi thì chuyện ấy cũng qua đi như cơn giông làm xơ xác lá rừng, như trận lũ ống bất ngờ ập xuống dòng suối, cuốn đi tất cả những gì nó gặp kể cả đất đá, cây cối, cửa nhà nhưng chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Thế rồi người bản Măng lại quen với cảnh bà đồn trưởng có cái tên Sinlu Fouché thôi không mặc váy lanh chàm in sáp hoa văn xanh đỏ, áo xẻ nách có miếng vải thêu đủ màu rực rỡ bịt ngực, bịt vai mà lại mặc váy áo đầm Tây, chân xỏ giầy Tây cao gót đi dạo về làng mỗi dịp có cuộc sên bản, sên mường. Duy chỉ có mái tóc là Sín Lủ không cắt bỏ để “phi dê” (coiffure) như mấy mẹ đầm và cũng không độn thêm tóc rụng cũ của mình làm Pờ ló ho như người Mông Hoa mà lại cứ để nó buông dài xuống tận dưới khoeo chân như những cô gái người Kinh.
Bản Măng chủ yếu là nơi quần tụ của người Mường, người Thái. Nhưng chẳng biết từ bao giờ, khi Sín Lủ lớn lên đã thấy có hàng chục ngôi nhà của người Mông nằm chênh vênh trên sườn núi Lanh, trong đó có nhà của gia đình Sín Lủ và nhà của gia đình Thào Sếnh ở múi đồi phía Tây bên cạnh. Ngay từ lúc sáu, bảy tuổi, Sín Lủ đã được mẹ dạy thổi kèn lá dựa theo những bài dân ca Mông truyền thống: “Em đang ở nhà em không biết/ Nhà trai sang la liệt dù, ô/ Dù, ô đã ngoắc cột nhà/ Thế là thành vợ, thế là làm dâu/ Hẹn ba ngày, ba đầu gà trống/ Mẹ bảo em: cơm sớm rồi đi/ Em rằng : con chẳng thiết chi/ Không đi đâu cả, cơm thì không ăn…”
Cho đến khi Sín Lủ mười sáu tuổi thì tiếng kèn lá của Sín Lủ đã làm ngơ ngẩn biết bao chàng trai cả người Mông lẫn người Mường, người Thái. Mỗi khi sương chiều buông tím, phủ mờ trùng trùng những nương ngô trên lưng chừng dãy núi Lanh, khi tiếng kèn lá của Sín Lủ vang vọng từ múi đồi phía Đông thì cũng là lúc tiếng sáo của Thào Sếnh từ múi đồi phía Tây nổi lên hoà quyện, quấn quýt lan toả đến từng nhà người Mường, người Thái trên khắp bản Măng. Mỗi tháng một lần vào tối hôm trước ngày trăng rằm, khi cả tiếng kèn lá và tiếng sáo mông chìm dần, chìm dần xuống đến khe suối Khắc thì trăng bắt đầu nhô lên trên đỉnh núi Lanh, nhưng trăng cũng không đủ sáng, thanh niên cả người Mường, người Thái lẫn người Mông tụ tập đông đủ ở bãi soi bên dòng suối Khắc lấy nứa khô, lấy củi đốt một đống lửa to vây xung quanh chơi đủ các trò mà người ta có thể chơi như múa xoè, nhảy dây, đánh quay, hát ví…và đến lúc ấy thì tiếng sáo mông của Thào Sếnh và tiếng kèn lá của Sín Lủ cũng tạm ngừng. Thào Sếnh dắt cây sáo vào lai quần, lấy cây nỏ đeo ở sau lưng xuống cùng Sín Lủ và mấy trai làng đi đến khu rừng mà Thào Sếnh đã theo dõi từ chiều, nơi đàn cò xà xuống ngủ qua đêm. Những trai làng cũng có người bắn nỏ khá nhưng chưa ai có thể sánh được với Thào Sếnh, mỗi một mũi tên bật đi trên cánh nỏ của Thào Sếnh thì nhất định sẽ có một chú cò rơi xuống. Sín Lủ có nhiệm vụ nhặt lấy bỏ vào cái gùi đeo phía sau lưng. Bắn cò ban đêm là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng nhìn thấy con cò đậu trên tán cây, bởi mặc dù có ánh trăng nhưng dưới tán cây rừng vẫn cứ tối, chỉ thấy nhờ nhờ, bàng bạc bởi đôi chỗ tán cây thưa lá. Phải đi thật nhẹ không được để bước chân gây ra tiếng động đánh thức đàn cò. Khi đã giương lẫy thì phải bắn thật trúng, bởi nếu bắn chệch, mũi tên đập vào cành cây gây ra tiếng động sẽ làm cả đàn cò giật mình cất cánh bay loạn xạ, và dĩ nhiên là sẽ phải huỷ bỏ chương trình đi bắn tiếp theo.
Khi gùi cò của Sín Lủ đem về đến bãi soi thì cũng là lúc đống củi đã cháy gần hết, nhưng lại có rất nhiều cục than hồng rực, ánh sáng của ngọn lửa sắp tàn, nhưng thay vào đó là trăng đã lên cao tỏ sáng. Đám thanh niên xúm vào vặt lông, mổ bụng, chặt khúc rồi bóp với muối và lá rau răm hái dưới suối Khắc, sâu những miếng thịt cò thành xiên đem nướng trên đống than hồng. Thịt cò nhất thiết phải bóp với rau răm mới hết tanh mà lại thơm. Có lẽ không thể nơi nào có loại rau răm cay như ở suối Khắc, nó còn cay hơn cả ớt chỉ thiên, nếu người chưa biết chỉ cần đưa lá lên môi nhấp một chút cũng làm cho lưỡi rụt lại, bỏng rát đến mấy ngày, ấy vậy mà đem bóp với thịt cò nướng thì vị cay lại giảm đi và bù vào là mùi thơm rau răm lẫn với mỡ cò toả lên đến quyến rũ. Lúc ấy, những ống nứa đựng rượu hoãng của người Mường, rượu ngô của người Thái và rượu táo mèo của người Mông sẽ đươc rút bỏ nắm lá chuối rừng bịt miệng đổ ra những ống nứa ngắn hơn, nhỏ hơn thay cho cái bát. Thanh niên cả nam, cả nữ cùng ăn thịt cò, cùng uống rượu hoẵng, rượu ngô, rượu táo mèo, cùng đánh mắt giao duyên, cùng hát giang hát ví, câu khắp câu lượn, và tiếng kèn lá của Sín Lủ, tiếng sáo mông của Thào Sếnh lại quấn quýt, vang vọng, mênh mang… « Anh muốn tìm đến lại sợ mẹ cha/ Muốn gọi em ra nhưng em nhiều việc… Gặp em bàn chuyện anh cướp em về… Anh hẹn ngày kia chạy ra đầu bản/ Miệng vờ hô hoán: “Trai họ cướp tôi”/ Nhìn em anh cười, ta là sức mạnh/ Trai làng kiêu hãnh đã cướp được em/ Đàn môi gảy lên, điệu khèn tiếng sáo/ Cho em ca hát, ta cùng yêu nhau…” Khi thịt cò gần hết và các ống rượu sắp cạn, nhiều người bỏ ra về, nhưng cũng có những cặp gái trai tản đi hoà nhập vào nương ngô ngập tràn ánh trăng sáng bạc hoặc tan chảy xuống dòng suối Khắc với rì rào nước, gió lao xao. Họ nói gì với nhau, họ làm gì với nhau thì chỉ có gió, nước và trăng mới biết…
2.
Năm 1946, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên được ra đời tại hang Trò Giót trên mảnh đất Mường Kịt được mang tên: chi bộ Thu - Kiệt – Lai bởi nhiệm vụ của chi bộ là lãnh đạo phong trào kháng chiến của các địa phương bao gồm suốt từ Kiệt Sơn, Lai Đồng đến tận Thu Cúc. Ở xã Lai Đồng đã có Uỷ ban hành chính kháng chiến. Tháng 3 năm 1946, trung đội tự vệ đầu tiên của xã Lai Đồng được thành lập, nhưng mọi hoạt động vẫn còn nằm trong bí mật. Đêm là của phía bên này, ngày là của phía bên kia. Hầu hết đám trai làng bản Măng cả người Mường, người Thái, người Mông đều tham gia. Nhưng Thào Sếnh thì lại trở thành lính nguỵ trên Đồn Mù. Từ đấy, người bản Măng không nghe thấy tiếng sáo mông của Thào Sếnh đã đành mà kể cả tiếng kèn lá của Sín Lủ chiều chiều cũng không còn nghe thấy nữa. Những đêm trước ngày trăng rằm, đám trai làng vẫn tụ tập ở bãi soi bên bờ suối Khắc nhưng không còn đông như trước. Không có tiếng sáo của Thào Sếnh, Sín Lủ giận Thào Sếnh lắm, sao không vào đội tự vệ của làng lại đi với đồn Tây, thế là người của phía bên kia rồi. Sín Lủ là con gái, nhà lại ở tít trên lưng chừng đồi nên không có tên trong danh sách của đội tự vệ, nhưng Sín Lủ được kết nạp là thành viên của Mặt trận Liên Việt xã, có nhiệm vụ vận động trai làng không đi lính cho đồn Tây. Thế mà chính người hàng xóm, chưa phải là bạn tình, chưa đến lúc bàn chuyện bày trò cướp nhau nhưng đã là người thân thiết, Thào Sếnh lại đi theo đồn Tây, không giận sao được…
Đội tự vệ được chỉ đạo chuẩn bị cho một trận phục kích tiểu đội lính Lê dương người Ma Rốc sẽ hành quân xuất phát bên Mường Kịt qua xã Lai Đồng để sang Thu Cúc theo mật báo từ người của Việt Minh ở phía bên kia. Sín Lủ cũng tham gia vót chông, đào hầm làm bẫy sập cùng với đội tự vệ của làng. Trận ấy, đội tự vệ tiêu diệt được một lính bị sập hầm chông, bẫy đá ném bị thương nhiều lính khác và thu được một khẩu súng trường. Sau sự kiện ấy, tinh thần của thanh niên làng càng thêm nhiệt huyết, càng thêm gắn bó với nhau. Những đêm trước ngày rằm, Sín Lủ lại thổi kèn lá giao duyên. Cánh trai làng người Thái được thể thả sức trổ tài thổi khèn bè nhằm dẫn dụ, vuốt ve lấy lòng tiếng kèn lá của Sín Lủ. Nhưng tiếng khèn của người Thái không giống tiếng khèn của người Mông, lại càng không thay được cho tiếng sáo mông, nó không thể hoà hợp, quấn quýt với tiếng kèn lá. Vì vậy, mỗi khi Sín Lủ bứt lá đưa lên môi thì các tiếng khèn đều ngưng bặt, các chàng trai túm lại vây quanh Sín Lủ, không biết các chàng trai có hiểu hết những âm thanh phát ra từ chiếc lá trên đầu môi Sín Lủ không nhưng ai cũng chăm chú, chủ yếu là để ngắm nàng, ai cũng muốn ánh mắt giao tình của mình lọt vào đôi mắt trong suốt của Sín Lủ. Suối vẫn reo, gió vẫn hát và trăng vẫn sáng như hồi Thào Sếnh còn ở nhà, nhưng tiếng kèn lá của Sín Lủ bây giờ sao mà buồn rượi: “Người ta thì vui chơi nhảy múa/ Không lứa đôi, tủi hổ khóc than/ Lẻ loi đơn chiếc buồn tênh/ Như thân gái goá cày nương không bờ/ Chiều tối lũ chim cò về tổ/ Ta đêm đêm trông ngóng đợi ai/ Sáng ra chim hót chim vui/ Ta thì lủi thủi trên đồi nắng trưa...”
Cái đêm trước ngày rằm tháng bẩy năm Sín Lủ ở tuổi mười bảy là một bước ngoặt định mệnh. Tết Síp xí của người Thái năm ấy, đồn trưởng Đồn Mù Benjamin Fouché dẫn một toán lính xuống bản vừa là để lấy lòng dân, vừa là để được xem con gái người Thái múa xoè. Trước khi vào quân đội, Fouché vốn đã từng học qua một trường nghệ thuật nên khi sang Việt Nam, ông ta rất chú ý đến những tài sản văn hoá phi vật thể của các tộc người bản xứ. Trong toán lính đi cùng ông ta có cả Thào Sếnh được phân công dẫn đường và hướng dẫn. Buổi chiều, sau khi dự tết Síp xí ở nhà chánh tổng Mường Kịt là Trùm Mun, Fouché cùng Trùm Mun đi thăm, tặng quà một số gia đình trong bản rồi tất cả kéo ra bãi soi bên bờ suối Khắc xem con gái Thái múa xoè. Theo nếp sống của người Thái, múa xoè là điều không thể không biết đối với các thiếu nữ, ngay từ lúc còn nhỏ các em đã được người lớn hướng dẫn, uốn nắn cử chỉ, động tác cho từng điệu múa. Trong một bản của người Thái có thể có đến năm, bẩy đội múa tuỳ theo lứa tuổi, chính vì vậy mà mỗi điệu múa đều có những đặc điểm riêng biệt, uốn lượn, bay bướm, biến hoá khôn lường. Vì có ngài đồn trưởng Pháp đến dự nên lý trưởng sở tại đã cho chuẩn bị khá chu đáo, có ghế ngồi, có bàn bày sẵn các ly rượu ngô để mỗi khi một điệu múa kết thúc, những vị khách danh dự như ngài đồn trưởng, lính tháp tùng và các chức sắc trong làng đứng lên hai tay cầm hai ly rượu đến mời và cùng uống với một trong những cô gái ở đội múa mà mình thích. Hành động này của người Thái giống kiểu như phong cách của người Tây mỗi khi lên sân khấu tặng hoa cho ca sĩ. Do có nhiều đội nên sau một vài điệu múa, Fouché đã đến lúc thấy men rượu làm cho ngây ngất, ngả nghiêng. Đám trai làng yêu cầu tạm dừng múa để nghe Sín Lủ thổi kèn lá. Thào Sếnh đưa mắt ra hiệu cho Sín Lủ đừng thổi, nhưng Sín Lủ không những không hiểu ý của Thào Sếnh mà nàng lại càng thấy giận Thào Sếnh hơn. Mấy trai làng nhanh nhẹn chạy đi vặt hẳn cả chùm lá cho Sín Lủ. Khi tiếng kèn lá của Sín Lủ cất lên, Fouché bỗng dưng bừng tỉnh. Trong các loại hình nghệ thuật, ông ta vốn rất mê và cũng rất am hiểu về âm nhạc, thậm chí còn có ý thức sưu tầm, nghiên cứu các làn điệu dân ca của từng dân tộc. Chính vì vậy nên Thào Sếnh rất được ông ta yêu mến bởi có tài thổi sáo. Mặt khác, mới chỉ lên đồn tiếp xúc với người Pháp có nửa năm trời mà Thào Sếnh đã có thể sử dụng tiếng Pháp trong các trường hợp giao tiếp. Thực ra điều đó cũng dễ hiểu, bởi thanh ngữ của người Mông thuộc loại đa âm, tương tự với thanh ngữ của người Âu châu nên người Mông thường học tiếng của các nước châu Âu dễ dàng hơn người Kinh, người Mường và nhiều tộc người khác sử dụng thanh ngữ đơn âm. Nhờ sự hướng dẫn của Thào Sếnh, Fouché còn có thể thổi được một vài bài sáo mông, tuy chưa hay nhưng cũng đã đúng thanh, đúng nhịp. Fouché gọi Thào Sếnh lại gần nói:
- Toa lấy sáo cùng thổi để tạo ra hợp âm, sẽ hay hơn nhiều!
- Thưa sếp, em lại không đem cây sáo đi rồi!
- Ồ! Thật đáng tiếc. Đêm nay cho toa ở lại, ngày mai mời bằng được cô gái thổi kèn lá lên đồn.
- Dạ thưa sếp, cái đó không được đâu, con gái người Mông không bao giờ tự ý đi theo con trai!
Lý trưởng Đinh Văn Lánh vốn là người được học hành, thành thạo tiếng Pháp. Ông ta lại ngồi cạnh Fouché nên nghe rõ những lời trao đổi của hai người. Đợi cho Thào Sếnh quay trở lại vị trí cũ, ông ta ghé vào tai Fouché nói nhỏ:
- Người Mông có tục Háy pú (bắt vợ). Nếu sếp thích, có thể cho lính đồn bất ngờ bắt nó đi. Có điều để trai làng và dân bản không cản trở thì phải công khai ai là người đàn ông bắt, người ấy sẽ là chồng của nó nếu cái bụng nó ưng. Còn không, sau vài ngày lại cho người đem trả về tận nhà tử tế và nói với gia đình là nó không chịu. Biếu cho cha mẹ nó mấy đồng bạc trắng để cúng tổ tiên gọi ma nó về là xong.
Ngay ngày hôm sau, nghe theo lời lý trưởng Lánh, Fouché cử mấy người lính dân địa phương đi bắt Sín Lủ rồi gọi Thào Sếnh lên phòng chỉ huy đồn trao đổi:
- Moa cho người đi bắt cô Sín Lủ về làm vợ cho toa. Toa nghĩ sao?
- Ấy chết! dạ thưa sếp, việc bắt vợ không làm thế được. Nói là bắt chứ thực ra cả hai người đều đã ưng nhau. Việc bắt chỉ là vờ thế thôi!
- Toa thổi sáo, vợ toa thổi kèn lá, chả hạnh phúc lắm sao?
- Không được đâu, thưa sếp, đúng là không chỉ mình em mà trai làng nhiều người thích Sín Lủ, nhưng chưa bàn gì với nhau mà đi bắt là không được.
- Ấy là moa có ý tốt với toa, còn toa không đồng ý thì thôi.
Thào Sếnh đi rồi, nói thì nói thế nhưng bấy giờ Fouché mới thấy lúng túng, khó xử. Thôi thì cứ mặc kệ đám lính. Bần cùng lắm thì đổ cho một người lính nào đó rồi đem trả người về và xin lỗi gia đình họ như lời lý trưởng Lánh hoặc lấy lý do đồn cho mời lên vì nghi vấn là Việt Minh. Thiếu gì cách.
Rất may cho đám lính, khi xuống đến bản Măng thì Sín Lủ đang dẫy cỏ một mình ở nương ngô. Một người lính nói:
- Sín Lủ à, ngài đồn trưởng cử cái mình cho bắt mày lên đồn.
- Cái mình có tội gì mà bị bắt?
- Mày không có tội gì cả, là ngài đồn trưởng sai cái mình đi bắt mày theo tục Háy pú của người Mông ta thôi.
- Thế đứa nào bắt cái mình?
- Chỉ biết ngài đồn trưởng sai cái mình đi bắt mày về làm vợ thôi, còn là do thằng Thào Sếnh hay là ngài đồn trưởng thì cái mình không biết đâu.
Sín Lủ thấy như có cả một cục hơi nghẹn lên tận cổ. Thào Sếnh mới lên đồn Tây chưa đầy một năm mà đã thành người khác rồi ư. Có bàn bạc gì đâu mà dám nhờ lính tráng đi bắt người ta…Nhưng nếu do Thào Sếnh thì phải có nó ở đây chứ. Chẳng lẽ lại do ngài đồn trưởng? Người Tây cũng có tục Háy pú hay sao, mà dẫu có tục ấy thì cũng phải hỏi người ta đã chứ?... Cái đầu Sín Lủ như nghe thấy cả một bầy ong rừng vỡ tổ, cả cái nương ngô, cả con suối Khắc như nhoà đi, như quay cuồng trước mắt… Thôi thì đành cứ đi theo bọn nó lên đồn gặp Thào Sếnh, gặp ngài đồn trưởng của nó xem sao.
Lên đến đồn, Sín Lủ được đưa thẳng vào phòng chỉ huy. Fouché đã đợi sẵn ở đấy. Bằng những cử chỉ rất lịch sự, Fouché chìa tay mời Sín Lủ ngồi sang chiếc ghế đối diện với ông ta rồi quay sang nói với một người lính bằng tiếng Pháp:
- Anh ở lại một chút dịch tiếng cho tôi! (Je suis un peu de traduction pour moi!)
Fouché rót một cốc nước đặt trước mặt bàn phía Sín Lủ ngồi rồi nói bằng một thứ tiếng Việt ngọng lơ lớ
- Moi co uong nuoc!
Đến tận khi ấy, vẫn chưa hết ấm ức, Sín Lủ nhìn thẳng vào mặt Fouché hỏi một câu gay gắt:
- Ngài đồn trưởng, tại sao mày cho bắt cái mình?
Sau khi người lính dịch lại, Fouché vừa cười vừa ôn tồn trả lời Sín Lủ:
- Ồ không! Bởi vì tôi yêu nghệ thuật thôi! (Oh non! Parce que J,aime I,art!)
Trong hoàn cảnh đồn trưởng vừa cử mình đi bắt Sín Lủ với nội dung theo tục Háy pú của người Mông. Vả lại anh lính người địa phương cũng không hẳn thành thạo tiếng Pháp cho lắm nên chưa phân biệt được những thanh âm tương tự đã dịch nhầm cho Sín Lủ là:
- Ồ không! Bởi vì tôi yêu em thôi! (Oh non! Parce que je t,aime!)
Không còn gì để phải nghi ngờ, băn khoăn thêm nữa. Cứ nghĩ là nó nhờ đồn trưởng đi bắt mình, làm như thế dù có thô bậy nhưng dẫu sao cũng vẫn còn cái tình. Hoá ra là nó lại dâng mình cho quan thầy nó. Cái bụng thằng Thào Sếnh thật dơ dáy thối tha. Như giọt nước tràn ly, Sín Lủ thấy trời đất tối sầm lại…cô gục xuống, ngất xỉu…
Fouché luống cuống cho gọi đốc tờ đến cấp cứu. Nhưng rồi cũng không sao, chỉ sau vài phút sức dầu, bấm huyệt, Sín Lủ đã tỉnh táo trở lại. Đến nước này thì còn gì nữa để mà nuối tiếc. Thào Sếnh ơi, mày đã đi theo người Tây, mày bán rẻ tất cả lương tâm, danh dự, tình người. Bây giờ, dẫu sao thì tao cũng đã bị trai nó bắt, ma của tao đã ra khỏi nhà tao rồi, có quay trở về thì cũng vất vưởng, lắt lay. Cái bụng mày đã xấu như thế thì tao sẽ làm vợ của sếp mày để rồi xem mày xử sự ra sao. Mũi tên đã bật đi rồi, chỉ còn chờ con cò có rơi xuống nữa hay không thôi. Cùng lắm thì chỉ cần vài cái lá ngón là đủ. Con gái người Mông ta đâu có ngại gì nắm lá ngón… Sín Lủ quay về phía người lính:
- Mày nói với nó là cái mình đồng ý ở lại, sau ba ngày nữa hãy hay.
Fouché mừng rối rít, sai người sắp xếp chỗ ở, chăm sóc và thực hiện những yêu cầu của Sín Lủ. Ngay buổi tối hôm ấy, Sín Lủ đồng ý thổi kèn lá và cố tình tỏ ra rất vui vẻ, Fouché cho gọi Thào Sếnh để cùng thổi sáo nhưng Sín Lủ không những không thổi cùng Thào Sếnh mà còn không thèm nhìn mặt và nói gì với Thào Sếnh nữa. Thào Sếnh thì quá bất ngờ, hoá ra là hai người này đã có hẹn hò bàn bạc với nhau rồi nên Sín Lủ mới vui vẻ đến thế. Thôi thì biết làm sao khác được, mình đã là cái gì của Sín Lủ đâu. Mà ngài đồn trưởng uy quyền, thế lực như thế, họ thích nhau thì ai làm gì được họ. Tiếng kèn lá của Sín Lủ cất lên lần này sao mà nhấp nhô, dữ dội và cay đắng đến thế: “Mẹ sinh em phận làm con gái/ Phải lão Đen mối lái buộc duyên/ Mẹ cha em nghĩ cũng phiền/ Những vờ nhổ tỏi, sang bên gọi làng…/Trời ơi/ Thân như thể thân trâu thân ngựa/ Chẳng khom lưng hạ túi hạ thồ/ Này đây lá ngón bên bờ/ Làm ngay một nắm, nuốt cho xong đời/ Lá thuốc độc cay ơi cay lắm/ Lá thuốc đau bỏng đắng buồng gan/ Cho thân quằn quại quay cuồng/ Hồn lìa khỏi xác thoát làm dâu... thôi!”
Biết Fouché cũng thổi được sáo mông, trong mấy ngày ở đồn, Sín Lủ ra sức kèm để tiếng sáo của Fouché hoà hợp, nhịp nhàng với tiếng kèn của Sín Lủ. Sín Lủ phải có được một người chồng thổi sáo không thua gì Thào Sếnh, phải làm sao cho Thào Sếnh đau xót, hổ thẹn và tiếc nuối.
Vốn dĩ đã là người có kiến thức về âm nhạc lại say mê, lại được tập tành chung với người đẹp nên kỹ năng thổi sáo của Fouché tiến bộ rất nhanh. Chỉ sau hai ngày, tiếng sáo, tiếng kèn của họ đã đan quyện, nhịp nhàng, vấn vít, hài hoà…Thế rồi, từ trong tâm can sâu kín, Sín Lủ như thấy có ngọn lửa thắp lên làm ấm lại cái lạnh giá của sự cay đắng, ê chề hôm mới bị bắt. Sín Lủ thấy Fouché cũng xứng là một người đàn ông đáng yêu, đáng mến, còn Fouché thì hoàn toàn bị hút hồn bởi cô gái mười bảy tuổi người Mông xinh đẹp có giọng kèn lá đến mê hồn…Và… như bạn đọc đã được biết ngay từ đầu câu chuyện: “Đám cưới của Giàng Sín Lủ với viên Trung uý đồn trưởng Đồn Mù người Pháp Benjamin Fouché không chỉ ngỡ ngàng cho thanh niên bản Măng mà còn làm chấn động dư luận khắp cả xứ Mường Kịt…”
3.
Mặc dù được Fouché rất yêu quý, nhưng rồi Sín Lủ cũng biết được rằng chẳng qua Fouché chỉ là người bị động trong việc phải cưới Sín Lủ vì sự hiểu lầm của anh lính phiên dịch. Nếu không có sự nhầm lẫn ấy thì chắc rằng sự việc đã khác. Lúc đầu Fouché cũng lúng túng vì ông ta đã có vợ, có con ở bên xứ sở của mình. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, ông ta thấy cũng đầy những sĩ quan xa xứ như ông ta có vợ bé. Thôi thì chậc lưỡi cho qua, được cô vợ bé vừa xinh, vừa trẻ lại cùng sở thích về âm nhạc thì cũng là một niềm hạnh phúc. Còn Sín Lủ lại thấy ân hận và thương cho Thào Sếnh, thương cho thân phận mình phải làm lẽ mọn dưới con mắt kỳ thị của cả bản, cả mường. Nhưng sự đã rồi, mũi tên đã bắn đi, con cò cũng đã rơi xuống, chỉ còn có việc nhặt bỏ vào gùi để chờ bóp với rau răm nướng trên than củi nữa thôi, mà người bật lẫy bắn mũi tên ấy đâu phải là Thào Sếnh, tại Sín Lủ đó, còn người được ăn thịt cò vừa thơm, vừa béo không phải Thào Sếnh, cũng không phải Sín Lủ mà lại là Fouché. Việc đã rồi, thôi thì nhắm mắt mà bước. Thân phận đàn bà Mông vốn dĩ là vậy. Bước chân về làm dâu nhà nào thì phải theo nền nếp nhà ấy. Sín Lủ vận trang phục Tây, học tiếng Tây nhanh đến nỗi ngay cả Fouché cũng phải kinh ngạc và sung sướng, tự hào về cái sự nói năng và phong cách giao tiếp với bạn bè, với cấp trên của chồng ở cô vợ trẻ. Bỏ qua những tai tiếng xì xèo, bỏ qua những ánh mắt miệt thị của họ hàng bà con, Sín Lủ vẫn thường xuyên vận đồ Tây, đi đứng theo kiểu người Tây về bản, vẫn được những chức sắc hàng tổng, hàng xã trọng vọng, xum xoe bà đồn trưởng. Sín Lủ thường xuyên có quà cho họ hàng làng xóm. Lúc đầu nhiều người còn dè bỉu, ngại ngần, nhưng về sau thì lại vui mừng và khen ngợi, khoe mẽ với xóm giềng vì có đứa cháu, có cô em, có bà chị…hào phóng, tốt bụng.
Sín Lủ ra thị xã phố tỉnh thăm và chu cấp cho đứa em trai mình là Giàng A Trư và cả em trai Thào Sếnh là Thào A Lếnh mà mấy năm trước Sín Lủ đã đưa chúng ra học, hai đứa vốn cùng tuổi, lại là bạn bè thân thiết với nhau. Đời mình coi như đã xong. Nếu ai bảo mình sung sướng, nhung lụa trắng trong, ừ thì là sướng. Nếu ai bảo mình tủi nhục, vợ tạm chồng hờ, không hơn cái lũ bán trôn nuôi miệng, ừ thì tủi nhục. Nhưng còn chúng nó, phải cho chúng nó đi học để thành người. Không thành người nhà họ Thào nhưng Sín Lủ sẽ mãi mãi coi người nhà họ Thào như người nhà họ Giàng, chứ còn cái họ Tây Fouché là cái mượn, cái bám, cái nhờ như kiếp phù du bèo bọt. Thào A Lếnh xin chị Sín Lủ mua và coi như là quà của nó cho anh trai Thào Sếnh một cái đèn ló sử dụng nguồn điện bằng pin dùng để đeo trên đầu khi đi săn bắn ban đêm. Mãi đến nửa buổi chiều Sín Lủ mới về đến nhà. Sau khi lau rửa qua loa, Sín Lủ đi ngay lên đồn tìm gặp Thào Sếnh để đưa quà. Thấy Thào Sếnh đang ngồi nhặt rau dưới bờ suối với anh lính nấu bếp Hà Văn Thành. Sín Lủ đi xuống bếp, đang định ra để gặp họ thì nghe Thào Sếnh nói:
- Đi ngay đi rồi không quay trở lại đồn nữa. Coi như đã bị lộ. Gấp lắm rồi, nhớ lời tôi dặn.
- Tôi nhớ rồi, để tôi bảo thằng Hùng là đi mua thêm rau cho nó có cái cớ.
Sín Lủ vội nhẹ nhàng quay trở lại. Hoá ra họ là người do phía Việt Minh cài đặt. Khổ cho Thào Sếnh quá, bị biết bao nhiêu người hiểu sai. Ngay cả mình mà nó cũng ngậm miệng không cho biết để ra đến nông nỗi này. Sín Lủ bỗng ứa nước mắt, vội lấy tay áo che chấm làm như bị bụi, phòng khi có người nhìn thấy. Không biết lại có việc gì sắp xảy ra nữa đây. Từ đầu năm, liên tiếp du kích của Việt Minh bẻ gãy các cuộc càn quét ở đồi Lò Rèn, đồi Nà Réo của cả quân Pháp, quân Lê dương lẫn quân người Việt. Họ còn tấn công cả đồn Quéo bên xóm Phắt gây thiệt hại lớn cho quân đội Pháp. Sín Lủ bỗng thấy lo cho Thào Sếnh. Người Pháp đã có ý nghi ngờ trong đội ngũ lính Việt có người của Việt Minh. Họ đang ngấm ngầm theo dõi. Mặt khác, họ cũng có người được cài cắm từ phía bên kia nên nếu không cẩn thận thì sẽ rất dễ bị lộ. Ngay như cuộc trao đổi vừa rồi để Sín Lủ nghe thấy cũng thể hiện là họ còn quá thiếu kinh nghiệm…
Vĩnh viễn Sín Lủ không bao giờ còn có cơ hội trao được món quà là cái đèn ló cho Thào Sếnh nữa. Theo mật lệnh của thiếu tá đồn trưởng Benjamin Fouché, ngay đêm hôm ấy, Thào Sếnh được lệnh chỉ huy một tốp lính bất ngờ đánh úp để bắt gọn toàn bộ đảng viên cùa chi bộ Thu – Kiệt – Lai nhóm họp tại một cái trại trông nương thuộc xóm Lèn. Đúng 8 giờ 30 phút buổi tối, nhóm của Thào Sếnh phải có mặt tại khúc đường mòn dưới chân đồi đi lên trại để phối hợp với các mũi khác bất ngờ ập vào vây bắt. Cũng vào đúng cái giờ định mệnh ấy, bốn người trong nhóm của Thào Sếnh đã lọt vào tầm ngắm của ổ phục kích bên Việt Minh và bị tiêu diệt toàn bộ.
Thào Sếnh chết đã làm cho Sín Lủ ngơ ngác như mất hồn. Mặc dù cô là người thông minh, biết kín đáo che dấu cảm xúc, suy nghĩ của mình, nhưng vẫn không qua được mắt Fouché. Một buổi tối, sau gần nửa giờ đồng hồ Fouché cùng Sín Lủ hoà tấu sáo, kèn. Bằng giọng nói và thái độ trịnh trọng, Fouché bảo Sín Lủ hãy yên lặng để nghe ông ta nói:
- Trong mấy năm chúng ta sống với nhau. Anh liên tục được thăng tiến phải kể đến công lao không nhỏ trong cách xử sự, giao tiếp của vợ anh. Điều đó anh phải cám ơn em nhiều. Người Việt các em có câu ngạn ngữ: “Giàu vì bạn, sang vì vợ” quả là không sai. Nhưng anh lại còn biết, trong lòng em chưa lúc nào nguôi về tình yêu, về sự nuối tiếc với Thào Sếnh. Có điều em cũng đã biết dừng đúng chỗ. Và cũng chính vì thế, khi được thăng lên hàm thiếu tá, chuyển sang sân bay Đồng Thân phụ trách toàn bộ hệ thống đồn bốt trên đất Mường Kịt này, anh vẫn cho mang Thào Sếnh cùng đi. Nếu Thào Sếnh chỉ là người lính giỏi giang về thổi sáo, về bắn nỏ không thôi thì hắn cũng sẽ cứ tiếp tục được thăng chức. Nhưng rất tiếc, hắn lại là người của Việt Minh. Những thất bại liên tiếp của quân đội Mẫu quốc gần đây là có bàn tay hắn và có cả sự tiếp tay vô tình của em. Nếu anh bắt hắn thì chính anh cũng phải ra hầu toà án binh. Thông minh như em, không cần nói chắc em cũng sẽ hiểu về cái chết của hắn là do đạn của phía bên nào. Thực lòng anh vẫn tiếc và thương cho hắn. Nhưng anh là quân nhân, lại là sĩ quan, anh có nhiệm vụ phải trung thành với quân đội và Quốc gia của mình. Trả giá cho cái chết của hắn, hắn sẽ được tuyên dương là người hùng của quân đội Quốc gia, còn có thể được đề nghị về Mẫu quốc tặng thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Riêng về em, bây giờ em phải dời khỏi xứ sở này để về Hà Nội. Anh đã mua nhà, em hãy chọn một nghề buôn bán gì đó kiếm sống. Anh sẽ về thăm mỗi khi có dịp kể cả khi đã trở về Mẫu quốc. Bây giờ em không cần nói gì. Cứ suy nghĩ vài ngày rồi trả lời anh.
Nói rồi, Fouché đứng dậy cầm cây sáo mông đưa lên miệng. Tiếng sáo lại gồ ghề, khấp khểnh như núi rừng Tây Bắc.
Cứ nghĩ đơn giản Fouché chỉ là một gã chơi bời đam mê nghệ thuật. Bây giờ mới thấy ông ta cũng là một nhà quân sự lão luyện, thâm sâu. Chẳng có cuộc họp chi bộ nào cả, Thào Sếnh đã bị sập bẫy của ông ta. Không những thế, cấp trên trực tiếp của Thào Sếnh là cụ chánh tổng Trùm Mun cũng bị Fouché cho bắt về tạm giam dưới tỉnh chờ ngày ra toà. Duy chỉ còn Hà Văn Thành là con cá săn sắt được thả để lộ diện con cá rô Trùm Mun. Rõ thật là nham hiểm và tinh quái. Tự nhiên Sín Lủ thấy lợm giọng, thấy tanh nồng những máu me, khét lẹt những lửa đạn khi phải nghe tiếng sáo của Fouché. Tai nàng ù đi, choáng váng…
Mấy ngày sau, hết giờ làm việc, từ đồn quay về nhà. Không thấy Sín Lủ đâu, Fouché vào buồng ngủ thấy một mảnh giấy đặt ngay ngắn trên bàn phấn của Sín Lủ:
Kính gửi Benjamin Fouché!
Xin phép từ bây giờ được gọi là ngài thiếu tá Fouché. Thưa ngài! Sín Lủ đã làm được nhiều việc cho gia đình là nhờ từ ngài. Ngài cũng là người rộng lượng, hào hoa và có lòng vị tha đáng kính trọng. Về cá nhân, Sín Lủ rất biết ơn ngài. Tuy nhiên, như ngài đã nói, ngài có nhiệm vụ trung thành với quân đội và Tổ quốc của ngài. Sín Lủ cũng có quê hương và rất yêu quê hương. Vậy, cũng như ngài, Sín Lủ phải có trách nhiệm trung thành với làng bản, quê hương mình. Sín Lủ không thể theo ý ngài về Hà Nội được, việc này còn là để gỡ khó cho ngài, bởi dù sao, Sín Lủ với ngài cũng chỉ là vợ tạm, chồng hờ. Sín Lủ phải ở lại quê hương mình thôi. Xin được trả lại ngài cái họ Fouché. Từ nay, Sín Lủ chỉ là Sín Lủ. Khi ngài đọc những dòng chữ này thì Sín Lủ đang đi trên con đường mà Sín Lủ đã chọn, không ai có thể nhìn thấy Sín Lủ nữa đâu. Ngài cứ nói với mọi người rằng Sín Lủ đã về Hà Nội để đỡ phiền phức cho ngài. Tuy nhiên, dù sao cũng đã có một thời là vợ, là chồng nên ngài vẫn có thể gặp được Sín Lủ lần cuối cùng, đồng thời cũng là để ngài tiếp tục làm nốt một số việc nhằm đảm bảo bí mật như những gì bí mật mà ngài đã từng làm. Ngài nhìn thấy chỗ nào có vẽ hình bông hoa đào năm cánh bằng son môi thì đi theo nó. Cần phải giải thích để ngài hiểu thêm, đối với những cái họ của người Mông, đều có những linh vật tương ứng, ví dụ như họ Sùng là con gấu, họ Mã là con ngựa, họ Giàng là con dê còn họ Thào là bông hoa đào…
Vĩnh biệt Benjamin Fouché
Sín Lủ
4.
Sau giải phóng năm 1955, đoàn Khảo sát của Bộ Canh Nông về Mường Kịt khảo sát làm đề án thành lập và xây dựng các Nông, Lâm trường Quốc doanh. Đoàn được chính quyền địa phương bố trí ăn ở tạm thời tại khu vực sân bay Đồng Thân. Ở đấy còn một số căn nhà làm trại lính, nhà điều hành sân bay và một dãy nhà riêng cho khu gia binh đang bỏ không. Chỉ cần cho vệ sinh, cũng có cái ở được ngay, có một số cái phải sửa chữa, quét vôi lại mới dùng được. Những cán bộ, nhân viên thường xuyên làm việc tại nhà thì được bố trí ở khu trung tâm. Những cán bộ, công nhân của đội Thiết kế do phải đi ngoại nghiệp, đo đếm ngoài hiện trường, thời gian làm việc thất thường nên được bố trí ở tại khu gia binh, mỗi phòng vài người và cũng chỉ cách khu trung tâm vài chục mét. Đội Thiết kế của Nguyễn Thế Vĩnh rất cần một số người địa phương thông thạo địa hình. Được sự đồng ý của đoàn trưởng, Vĩnh đến Uỷ ban hành chính xã đặt vấn đề xin người. Sau khi xuất trình giấy giới thiệu của đoàn trưởng, Vĩnh được bố trí làm việc trực tiếp với đồng chí chủ tịch:
- Báo cáo đồng chí chủ tịch xã, Đoàn chúng tôi cần tuyển dụng khoảng ba người là thanh niên địa phương có đủ sức khoẻ làm việc cho đội Thiết kế. Nếu có trình độ học vấn cao càng tốt, còn không thì cũng phải biết đọc, biết viết và làm những con tính thông thường.
- Chúng tôi đang phải lo tập trung xóa mù chữ, ngay như tôi đây cũng mới chỉ biết đọc, biết viết mà đôi lúc còn phải đánh vần. Lấy đâu ra lắm người nhiều chữ thể
- Cũng có đấy bác ạ! – Một bác chừng tuổi trung niên đang rít dở điếu thuốc lào nói xen vào.
- Là ai thế?
- Thằng Thào A Lếnh và Giàng A Trư chẳng đã học hết đít lôm ( Diplôme) rồi hay sao?
- Nhắc gì đến hai thằng ấy. Gia đình chúng nó thuộc diện gia đình nguỵ quân, anh chị chúng nó là lũ phản động. Ngay cả bây giờ dân quân du kích vẫn còn phải để mắt theo dõi chứ đừng nói cho nó chui vào cơ quan Nhà nước để chúng phá hoại à.
Việc tìm người không thành vì không biết chữ thì không thể tuyển dụng được. Đoàn trưởng cho phép đội của Vĩnh thuê người dẫn đường theo nhu cầu của từng ngày làm việc. Đội phải chia làm ba nhóm nên thường xuyên phải thuê ba người. Ngay từ ngày đầu, nhóm của Vĩnh đã có một cô thanh nữ người Mông xinh đẹp đến xung phong xin đi dẫn đường, công xá muốn trả bao nhiêu cũng được. Vĩnh hỏi tên, cô nói là Thào Nhếnh. Thào Nhếnh không những thông thạo núi đồi, khe rạch mà cô còn tỏ ra rất thông minh. Những khi nhóm ngồi nghỉ, cô còn có khả năng tư vấn để Vĩnh phác thảo sơ đồ địa hình toàn khu vực. Có cô, nhóm của Vĩnh làm việc với một tiến độ nhanh và chính xác hơn các nhóm khác. Những hôm ở nhà làm nội nghiệp, cô cũng có mặt để giúp Vĩnh chỉnh lý, bình sai. Cả nhóm ai cũng mến cô. Riêng Vĩnh hôm nào không gặp được cô lại thấy nhớ, hình như có cái gì gần gũi, gắn bó lắm…
Bấy giờ muốn đo đếm một diện tích rừng nào đó, người ta phải đạc lần rồi về vẽ ra giấy ô ly để tính diện tích. Một lần làm nội nghiệp, thấy có một lô sự sai số lớn quá mức cho phép, theo nguyên tắc thì cả tổ phải vác mia, vác máy đi đạc lại. Thào Nhếnh bảo: “Em biết các anh bị sai ở chỗ nào rồi. Chỉ cần anh Vĩnh đi cùng em đến chỗ ấy em sẽ chỉ cho”. Hai người đi lên rừng theo đường tuyến đã được phát dọn, Vĩnh kiểm tra từng lần ngắm máy, đối chiếu với hiện trường. Đến đoạn khúc gấp giao điểm giữa con suối Khắc và con suối Thúc thì bỗng Thào Nhếnh nói với Vĩnh: “Các anh bị sai phương vị ở điểm này đây”. Vĩnh kiểm tra lại số liệu thấy đúng như lời Thào Nhếnh nói. Vĩnh hỏi:
- Tại làm sao mà em lại biết ngay là các anh bị sai ở điểm này?
- Tại vì lúc ấy em đứng gần máy ngắm, thấy kim la bàn chỉ góc 75 độ nhưng anh Tĩnh lại đọc thành 105 độ.
- Thật đơn giản, cậu ta bị nhầm, đọc ngược kim la bàn. Cũng vì đang nắng nóng lại đến gần con suối mát mẻ thế kia thì nhầm cũng không đáng trách lắm. À, nhưng mà sao em bảo không biết chữ mà lại đọc được cả phương vị la bàn?
- Không biết chữ nhưng em biết số.
- Ừ, cũng có lý. Nhưng anh vẫn thấy thế nào ấy, không biết chữ nhưng nói năng như người có học. Hình như em không nói thật.
- Thôi đi mà, xuống suối ngồi nghỉ rồi em sẽ kể cho anh nghe về nhà em.
Hai người lội ngược lên một đoạn theo dòng suối Khắc, chặt mấy tàu lá chuối, chọn một bãi đá cuội rải ra ngồi. Nơi này tĩnh lặng, hai bên bờ cây cối mọc dầy, tán cây giao nhau che kín cả dòng suối, có ngồi nói chuyện cả ngày cũng không sợ bị ai quấy rầy, hai người chỉ nghe thấy tiếng nước chảy, tiếng gió lao sao và tiếng chim lích chích đuổi nhau. Nắng xiên khoai qua những lỗ thủng của vòm cây, lấp loá trên mặt nước trong veo, nhìn rõ từng hòn đá cuội trắng muốt, tròn vo, lung linh méo mó. Thào Nhếnh gỡ bỏ búi tóc trên đầu, Pờ ló ho của cô không cần độn thêm tóc bởi cô có mái tóc dầy xõa xuống dài quá cả khoeo chân. Vĩnh chỉ còn biết ngồi im ngắm cô chải tóc. Thế rồi Thào Nhếnh búi lại mái tóc theo kiểu người Kinh. Cô bảo Vĩnh đi kiếm củi khô còn cô đi chặt ống nứa để đốt cơm lam, cô đã chuẩn bị sẵn mọi thứ trong cái ớp nhỏ. Khi Vĩnh ôm được một bó củi về thì Thào Nhếnh đã cho gạo vào ống, hai con cá chày mắt đỏ to bằng cổ tay được xiên dọc theo một thanh tre. Thào Nhếnh bảo con suối này nhiều cá lắm, có nhiều cách bắt cá, nhưng bắt theo kiểu này thì phải đi trên bờ để không làm động nước, dùng một cái xiên chọc ngay phía trước đầu con cá thì sẽ trúng giữa lưng. Lửa được đốt lên, ống cơm lam và cá được hơ trên ngọn lửa phập phồng mỗi lúc mỗi thơm…
Thào Nhếnh có một ông anh trai tên là Thào Sếnh, anh ấy yêu chị Sín Lủ và chị Sín Lủ cũng yêu anh Thào Sếnh lắm. Anh Thào Sếnh theo Việt Minh làm điệp viên trên đồn Tây. Chị Sín Lủ hiểu nhầm dẫn đến việc trở thành vợ đồn trưởng sân bay Đồng Thân. Viên đồn trưởng đã tạo ra một thông tin giả gài được anh Thào Sếnh vào bẫy, kể cả cụ Trùm Mun là cấp trên trực tiếp của Thào Sếnh cũng bị bắt rồi bị toà án Pháp xử tử hình. Chỉ còn anh cán bộ điệp báo cấp dưới của Thào Sếnh tên là Hà Văn Thành thì thoát và sau đó được tổ chức đưa xuống huyện đội rồi xung vào quân chủ lực. Sau khi Thào Sếnh chết, chị Sín Lủ cũng ăn lá ngón tự tử. Bây giờ, chị Sín Lủ thì bản làng coi như là bà đầm đã theo chồng người Tây sang Pháp hoặc biệt tích về Hà Nội. Anh Thào Sếnh thì bị coi như là một nguỵ quân nguy hiểm vì còn được quân đội Pháp tuyên dương. Rất khổ cho những người còn lại của hai gia đình ấy, mang tiếng là gia đình của kẻ phản quốc. Chị Sín Lủ thì thôi chẳng nói làm gì. Nhưng còn anh Thào Sếnh thì oan khuất quá. Thành tích của anh đối với kháng chiến không nhỏ, nhưng ai chứng minh được điều ấy? Cụ Trùm Mun thì mất rồi nhưng dẫu sao cụ cũng còn được công nhận là liệt sĩ. Bây giờ chỉ còn hai người có thể minh oan cho anh Thào Sếnh. Đó là Benjamin Fouché và Hà Văn Thành. Fouché ở mãi tận bên Pháp, là người của phía bên kia, dẫu có tìm được thì cũng chả ai tin. Còn lại Hà Văn Thành chỉ biết tên là thế chứ quê quán cũng chẳng biết ở đâu. Vào bộ đội chính quy, tiếp tục đi chiến đấu, bây giờ biết còn hay mất…Nước mắt lưng tròng, đôi vai Thào Nhếnh rung lên, cô gục đầu ôm gối nức nở. Vĩnh cũng mềm nhũn cả người, câu chuyện đã động đến lòng trắc ẩn sâu thẳm tận tâm can khiến Vĩnh tự nhiên ôm lấy vai Thào Nhếnh, an ủi, vuốt ve…
Khi cơn xúc động tạm thời dịu xuống, Thào Nhếnh ngẩng lên mở to đôi mắt trong suốt nhìn thẳng vào mắt Vĩnh:
- Anh Vĩnh, anh là người có học, có vị trí trong xã hội lại được đi nhiều, biết nhiều. Anh có thể giúp em tìm ra anh Hà Văn Thành để minh oan cho anh Thào Sếnh được không?
- Biết rằng việc này rất khó, nhưng anh xin thề với em, còn sống ngày nào anh sẽ hết sức cố gắng giúp em tìm ra anh Hà Văn Thành.
- Ôi! Em phải mang ơn anh nhiều lắm!
Mãi đến tận gần trưa ngày hôm sau, đội thiết kế mới tìm thấy đội trưởng Nguyễn Thế Vĩnh nằm bên bờ suối Khắc. Mọi người hoảng hốt cả lên vì nghĩ anh bị cảm, nhưng rồi lay gọi thì anh tỉnh lại, lúc đầu còn mơ màng, ngơ ngác, nhưng sau khi vốc nước suối rửa mặt, Vĩnh trở lại hoàn toàn bình thường. Anh bảo;
- Tôi nhớ rõ ràng là đêm qua, tôi cùng Thào Nhếnh ăn cơm lam, cá suối ở đây, ăn xong Thào Nhếnh về nhà cô ấy, còn tôi vẫn ngủ tại cái giường ở phòng tôi.
- Thì chúng tôi cùng với anh vẫn đang đứng trên bờ suối Khắc. Rõ ràng là đêm qua anh đã ngủ cùng Thào Nhếnh ở đây.
- Vớ vẩn, thế cô ấy đâu rồi?
- Anh phải hỏi anh chứ, sao lại hỏi chúng tôi?
Sự việc của Nguyễn Thế Vĩnh trở nên rắc rối. Người ta quy anh vào khuyết điểm hủ hoá, bị đình chỉ công tác và ngồi viết kiểm điểm. Nhưng rồi cũng kể từ hôm ấy, bặt tăm không thấy Thào Nhếnh ở đâu. Đoàn khảo sát cho người đi làm việc với xã, với các bản cũng không tìm thấy cô gái nào có tên là Thào Nhếnh. Căn cứ vào bản tường trình của Vĩnh, người ta lại nghi ngờ rằng cái cô Thào Nhếnh nào đó là gián điệp, đang được cài cắm để phá hoại công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hiện đang còn ẩn náu đâu đây. Một cuộc truy lùng được tiến hành, người ta đi khắp bờ bụi, khe suối, hang hốc quanh vùng. Nhà cửa cũng được xem xét lại kỹ lưỡng, đặc biệt là phòng của Nguyễn Thế Vĩnh, mặc dù đã là Đảng viên, đội trưởng đội Thiết kế nhưng trong vụ việc này vẫn là đối tượng bị nghi vấn. Trên trần nhà trong phòng Vĩnh có một cái lỗ hình vuông là lối để trèo lên kiểm tra trần và mái nhà, bên mép lỗ thấy có hình một bông hoa đào năm cánh kiểu như được vẽ từ một thỏi son môi. Người ta phán đoán có thể Thào Nhếnh đang ẩn náu ở trên đó. Thế là một phương án tác chiến truy bắt đối tượng được vạch ra. Tự vệ của đoàn Khảo sát phối hợp với dân quân xã, có bao nhiêu khẩu súng được huy động sử dụng hết. Người ta cho bắc một cái thang tre ghếch lên miệng lỗ rồi dùng loa điện kêu gọi đối tượng ra tự thú để được hưởng chế độ khoan hồng. Nhưng cho gọi nhiều lần mà trên trần nhà vẫn không thấy có động tĩnh gì. Thế là lại tới lúc cần đến lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, không sợ hy sinh của các dân quân, tự vệ. Có vài người xung phong leo lên trước. Trong tư thế súng đã lên nòng, sẵn sàng nhả đạn nếu tên gián điệp ngoan cố chống cự. Nhưng có đến mấy người, hễ cứ trèo gần lên đến cái lỗ, người thì bị trẹo chân, người thì bị dính rằm tre đâm, thậm chí có người còn bị té ngã. Lúc ấy người ta mới nghĩ đến việc yêu cầu Nguyễn Thế Vĩnh trèo lên trước. Có thể vì không phải đeo súng, dành cả hai tay nắm vào các bậc thang, hoặc cũng có thể vì một yếu tố tâm linh gì đó, Vĩnh đã không bị ngã và trèo được lên trần nhà một cách dễ dàng. Sau khi Vĩnh đã đứng ở trên trần nhà thì những người có chức trách khác cũng nhanh nhẹn trèo lên. Trong tư thế lom khom, dưới ánh sáng mờ mờ của căn gác xép, người ta nhìn thấy có một khối gì đó dài dài, đen đen nằm ở khoảng giữa trần nhà, xung quanh mạng nhện chăng dầy. Khi đi đến gần, người ta mới nhận ra đấy là một cái quan tài được gắn kết, bịt bọc rất cẩn thận.
Tất nhiên, các thủ tục về hành chính để xử lý vụ việc người ta đã làm rất đúng quy định. Chỉ biết, theo biên bản của bên pháp y thì trong cái quan tài ấy có một bộ hài cốt của người phụ nữ với mái tóc dài gần chấm gót chân và một cái đèn ló sử dụng nguồn điện bằng pin.
C.S