Kiên Lục Bát
NHÀ VĂN ĐÀO NGỌC DU – LÃNG ĐÃNG GIEO CHỨ LÊN MÙA!
- Người cần mẫn trong nghề tạc chữ.
Trong số những Nhà văn cao tuổi còn “đi” được, còn “viết” được của Hội Nhà văn Việt Nam, thì Nhà văn Đào Ngọc Du, với tuổi gần 90 mà vẫn còn tinh nhẹn lắm! Trên các trang mạng xã hội, bạn bè và người đọc vẫn thấy ông cập nhật liên tục những hoạt động văn chương của mình! Vừa thấy ông đưa ảnh ở Lạng Sơn tuần trước, vài hôm sau đã lại thấy ông ngược Báo Bắc Giang trong hội nghị cộng tác viên thường niên, rồi mấy bữa, lại thấy ông trầm ngâm chụp ảnh cùng Nhà sử học Lê Văn Lan ở Nhà thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Hải Phòng...
Sau mỗi chuyến đi, lại thấy ông khoe ra một vài phong chữ vừa hái được dọc đường. Khi thì một chiếc tản văn nho nhỏ, khi thì chiếc tùy bút xinh xinh, khi thì một phiến thơ gòn gọn. Nhìn cái cách ông líu ríu nói cười, khoác túi văn chương vân du cùng câu chữ ở tuổi ấy mà không ít người phải giật mình kính nể!
Tôi và ông cách nhau ngót bốn mươi năm trần thế, hai thế hệ với vô vàn những khác biệt, ấy thế nhưng mỗi lần ngồi với ông, chả còn thấy cái khoảng cách thăm thẳm của tuổi tác đâu nữa. Những câu chuyện từ mạch chữ, mạch đời, mạch văn cứ sòng phẳng, vô tư và trong trẻo chảy giữa hai thế hệ. Thi thoảng lại thấy ông bốc máy gọi cho bạn bè qua Zalo, Fb nhoay nhoáy. Trên các trang cá nhân, ông tương tác rất tích cực, comment, reply chỗ này, chỗ kia cứ toanh toách trên cái điện thoại bé xíu!
Vốn sinh ra ở Thái Bình, lớn lên trong những năm khốn đốn nhất của thế kỷ XX - Nạn đói năm Ất Dậu 1945 gieo đau thương chết chóc ghê rợn tại Việt Nam, đặc biệt là miền Sơn Nam Hạ. Ở tỉnh Thái Bình quê hương ông, người chết đói như ngả rạ, hàng loạt những hình ảnh chết chóc, đau thương ngày ấy còn đầy ắp trong ký ức tuổi thơ ông. Lênh đênh cùng những tháng năm loạn lạc, rồi ông vào bộ đội từ những năm 1959, duyên chữ đưa đẩy mà ông đến với sách vở, văn chương từ những năm 1962 tại Thư viện Hà Nội, từ đây nghiệp chữ, nghiệp văn chính thức thành sinh kế và cả sự đam mê, thầm lặng phục dưỡng tâm hồn ông, để trở thành một nhà văn sau này!
Mười lăm năm công tác tại Thư viện Hà Nội, hai mươi mốt năm làm công tác Biên tập, Quản lý Phòng Biên tập tại Nhà xuất bản Văn học. Bên cạnh ông là chữ và chữ, ngày tháng lật mở qua những trang bản thảo văn chương, thì việc ông trở thành người sáng tác, rồi trở thành một nhà văn, ấy cũng là thuận Đạo tự nhiên vậy! Cứ thầm lặng trong sống cùng kiếp chữ giữa cõi người tần tảo, đến nay ông đã có 18 tác phẩm văn học, gồm thơ, tản văn, bút ký, tùy bút được xuất bản! Ngoài ra, ông còn là chủ biên của tác phẩm đồ sộ Họ Đào Việt Nam với hơn hai ngàn trang in khổ lớn! Sức làm việc ấy, cái duyên chữ ấy, đâu phải chỉ cần có một tài năng, hay một đam mê mà trổ nên thành nên lũy ấy! Để có được gia tài văn chương ấy, với văn nhân Đào Ngọc Du là kết quả tổng hợp của tài năng, sự đam mê, cần mẫn và tư tưởng kiên định của một nhà văn chân chính trước cuộc đời này!
- Từ lãng đãng trong miền câu chữ ấy.
Đọc văn chương của văn nhân Đào Ngọc Du, phải tinh ý mới nhận ra những nét tài hoa mà ông đã chắt chiu để lập dựng thành vóc chữ. Trong mảng thơ, thấy ngôn ngữ thơ của ông chặt chiệm và kiệm lời, thơ của ông hướng tới sự lay gợi và chia sẻ với nỗi người, nỗi đời qua những góc nhìn của riêng ông. Những tập thơ: Đất và hoa (in chung), Nxb Văn học 1990; Riêng mình tôi nhớ, Nxb Văn học 1998; Giấc mơ không ngủ, Nxb Hội nhà văn 2005… đã định hình rõ nét phong cách thơ riêng của nhà văn Đào Ngọc Du. Thơ ông đằm và nhuần nhụy, lay gợi dù vẫn là cái khung chữ truyền thống quen thuộc của thơ Việt:
Làng anh ở đầu ô/ Sương sa mờ thành cổ/ Đổ bóng in mặt hồ/ Sóng dâng trào nỗi nhớ/ Xóm em ở giữa phố/ Đường kẻ ô bàn cờ/ Lá rơi vàng lối nhỏ/ Mưa ướt nhòe trang thơ. (Làng phố xóm nhỏ).
Thơ Đào Ngọc Du là thứ thơ của tâm trạng và cảm xúc, được tinh lọc và sắp đặt có chủ ý trong vần điệu, lớp lang, ngỡ như dạng thức thường thấy của thơ tự sự, mặt phẳng, nhưng trong ấy lại là cái hàm ngôn, chồng lớp:
Rượu tu lưng chừng núi/ Ta ngồi uống với mây/ Trước mặt cao dốc núi/ Sau lưng suối với cây/ Bỗng nhớ về Quang Dũng/ Trong “Mắt người Sơn Tây” / …/…/ Ba Vì núi ơi núi/ Ta lạc vào cõi mây/ Bên Trung Hà dưới ấy/ Chiều trung du say… say. (Một thoáng Ba Vì).
Cứ chân văn, chân thơ, văn nhân họ Đào lặng lẽ độc hành trên cung đường văn học mà trời đất đã khai mở cho ông. Ngôi chữ mà ông lập cho thơ mình luôn dung dị, chân thành mà đầy đặn những tin yêu:
Năm nay ta lại lên biên giới/ Suối rừng trong vắt sáng mặt gương/ Rực rỡ xuân này đào mận nở/ Áo chàm ai xanh thắm đồi nương. (Ải Chi Lăng)
Nhưng với văn nghiệp của Đào tiên sinh, thì có lẽ thơ chỉ là kết quả của một cuộc chơi cùng câu chữ văn chương, còn cái tinh túy khiến ông phải lao tâm khổ tứ, phải dày công “đi” và “sống” lại nằm trong mảng văn xuôi, đấy là những Bút ký và Tùy bút mang thương hiệu Đào Ngọc Du trong suốt mấy chục năm qua! Theo chúng tôi, đấy là điểm nhấn cơ bản để tạo nên nét đặc sắc trong bức chân dung ngôn ngữ của Nhà văn họ Đào này! Tổng hợp những ý kiến của các văn nhân tên tuổi như Nhà văn Dịch giả Thúy Toàn, Nhà văn Lê Minh Khuê, Nhà văn Hà Nguyên Huyến…v.v khi nhận xét về tùy bút và bút ký của Đào Ngọc Du đã cho chúng ta một sự khả tín quan trọng khi tiếp cận văn xuôi của ông:
Đào Ngọc Du đã đóng góp vào mảng sáng tác một thể loại mới là Bút ký Lịch sử - Văn hóa (Nhà văn Hà Nguyên Huyến).
Nhà Sử học gạo cội Lê Văn Lan khi đọc và viết về tập Bút ký Lãng đãng Hồ Tây của ông có đoạn:
“Người đọc chú ý đến những trang bút ký gọn gàng, xinh xắn, nhẹ nhàng mà phảng phất duyên thầm, khi thì hồi tưởng hoài niệm, khi thì hiện hữu thực tại… Đó là những bút ký về những làng nghề ven Hồ Tây của Đào Ngọc Du. “Lãng đãng Hồ Tây” được xuất bản, đã góp phần khép nối lại thành một đường viền văn chương chữ nghĩa và tâm tư tình cảm quanh bốn mạn Hồ Tây”.
Ấn phẩm làm nên thương hiệu bút ký của Nhà văn Đào Ngọc Du phải kể đến Lãng đãng Tây Hồ, hiện đã được tái bản tới lần thứ 04! Đó là một tập sách dày hơn hai trăm trang, viết về Hồ Tây với đầy đặc những chi tiết, số liệu cụ thể về văn hóa và đời sống của các làng nghề quanh Hồ Tây từ trong lịch sử đến hiện tại! Mời đọc một đoạn ông đặc tả về đường Thanh Niên trong tập bút ký này:
“…Đường Thanh Niên đây.
Mấy vạn ngày công của tuổi trẻ Thủ đô, ba năm sau ngày giải phóng, ùn ùn chuyển đất cát từ bãi sông Hồng, bến An Dương vào, cạp rộng gấp đôi con đê Cổ Ngư xưa, cấy trồng cỏ cây hoa lá, lát đường nhựa rồi kè bờ xi măng, dựng lan can, để thành một điểm hẹn sáng giá không chỉ cho vùng hồ, mà còn cho cả Hà Nội thanh lịch. Cũng là để chia đôi vùng nước trời Hồ Tây, thành ra có thêm hồ Trúc Bạch ở góc Đông Nam…”
Viết bút ký bằng trách nhiệm và sự tìm tòi công phu, ấy là cách làm đã thành nguyên tắc sáng tác của Đào Ngọc Du. Chỉ vì chưa làm rõ nghĩa sự ra đời của địa danh hồ Trúc Bạch, mà cái vướng vất ấy đã lập thành đoạn văn đầy trăn trở này:
“Những vướng vất cứ miên man thế, cho đến một đêm ngồi chong đèn đọc sách trên căn gác cũ trông ra hồ Tây, tôi chợt thấy mấy dòng ẩn hiện dưới ngọn đèn vàng:
Năm tháng trải bao nhiêu, non sông từng biến đổi. Tên cũ “Hồ Tây” bắt đầu chỉ riêng khu hồ phía Bắc. Nhà Hậu Lê đắp tiểu quách ngang hồ, từ Yên Phụ đến Yên Quang, trở về Đông, phân hạn làm hồ Trúc Bạch”.
Chợt thấy sáng bừng nghĩa lý sự ra đời của vùng nước trời ngay trước mặt. Hồ Trúc Bạch vậy là sản phẩm của một công cuộc triều chính: Nhà Hậu Lê đắp tiểu quách!
“Quách” vốn là chữ díu đôi với “Thành”trong tổ hợp từ Thành quách, nó là cái bao bên ngoài của tường thành. Vậy là cái quách Cố Ngự - Cổ Ngư - Thanh Niên trước mặt chỗ tôi đọc sách được nhà Hậu Lê cho đắp, bao ra ngoài cái tường thành Cửa Bắc, đã gạt một phần trời nước hồ Tây vào góc Đông Nam tạo nên hồ Trúc Bạch.”
(Đêm Tây Hồ đọc Tây Hồ chí).
Văn Bút ký của văn nhân Đào Ngọc Du đẹp và sang bởi sự chi tiết và tỷ mẩn, trách nhiệm và trau chuốt. Chính lối lập dựng ngôn ngữ văn chương ấy đã tạo ra những trang văn sang trọng, mà chẳng cần đến một sự pi-a hay đánh bóng nào từ truyền thông cả! Văn cũng như đời, để tạo nên cái đẹp, cái sang trọng của văn chương, thì không chỉ cần tài năng mà cần cả sự đam mê, công phu và khổ luyện! Đào tiên sinh với hơn nửa thế kỷ nổi chìm cùng nghiệp chữ, đã luôn đồng hành với những yếu tố ấy để làm nên những trang bút ký với đa chiều giá trị! Xin hãy đọc một đoạn văn của ông tạc từ địa danh văn hóa Đường Lâm nổi tiếng để thấy những số liệu, những chi tiết được ông sử dụng đắc địa như thế nào:
“Chùa Mía được xây dựng theo hình bốn mái trên bệ cao, có tường bao quanh, giữa có ngai rồng rất uy nghi, còn gọi là Sùng Nghiêm tự nằm trên ngọn đồi đá ong. Tương truyền là do bà Nguyễn Thị Ngọc Dung khởi xướng, chủ trì xây dựng từ 1632 (năm Đức Long thứ 3) dân gian gọi bà là bà Chúa Mía. Chùa Mía là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, được Bộ Văn hóa xếp vào loại Di tích đặc biệt quan trọng. Chùa có tới 287 pho tượng, nhiều tượng nhất trong các chùa ở Việt Nam. Trong đó có 06 pho tượng đồng, 107 pho tượng gỗ, 174 pho tượng đất.
Cây đa cổ thụ ở chùa có đến vài trăm năm tuổi, gác chuông rêu phong, hai tầng bốn mái, quả chuông đồng hun rất lớn, đúc năm Cảnh Hưng thứ bảy (1746). Chùa Mía thuộc làng Đông Sàng, làng này còn có giống gà thịt chắc, thơm ngon nổi tiếng từ xưa gọi là gà Mía.” (Về lại Đường Lâm).
Lại ngược về miền Bắc Ninh, Bắc Giang cùng ông qua bút ký Ký ức phủ Lạng Thương, men theo sông Thương để tìm về ngọn nguồn đôi dòng trong cái tên của con sông lịch sử:
“Khoảng một cây số có hai dòng nước đục và trong này, chính là chỗ “Sông Thương nước chảy đôi dòng” trong ca dao dân ca và trong ca khúc của Nhạc sỹ Đặng Thế Phong. Lại ở vào chỗ đắc địa, không chỉ để ngoạn cảnh mà còn chính là để đi lại, nối liền miền ngược có dải biên thùy quan yếu phía Bắc đất nước, với miền xuôi có đế đô kinh thành phồn thịnh…” (Ký ức phủ Lạng Thương).
Viết bút ký văn học mà chau chuốt, mà tỷ mẩn với từng số liệu đến thế, thời nay, chắc hẳn không còn nhiều cây bút làm được điều ấy, mà cần nhớ rằng, khi những bút ký của ông ra đời, thì internet và mạng xã hội còn đang rất ì ạch, vậy nên những số liệu kia được ông cập nhật hoàn toàn bằng các nguồn sách vở và đi thực tế! Vậy nên, khi tiếp cận những tập bút ký đã làm nên tên tuổi ông trong làng văn, chắc hẳn sẽ khiến nhiều bạn đọc phải cảm phục sức làm việc và khả năng văn chương của ông.
Loạt tác phẩm bút ký tiêu biểu của Nhà văn Đào Ngọc Du gồm: Lãng đãng Hồ Tây, Nxb VHTT 1999; Từ Long Hưng tới Thăng Long, Nxb VHTT 2004; Những miền đất tôi qua, Nxb HNV 2009; Nhớ đất nhớ người, Nxb HNV 2022; Sương khói Tây Hồ, Nxb HNV 2014; Tuyển tập bút ký Đào Ngọc Du, Nxb HNV 2019…
Đồng hành với những trang bút ký và thơ, từ năm 2010 đến nay, ông cùng với Sử gia Lê Văn Lan phối hợp làm Biên kịch của 06 tập phim về triều đại nhà Trần, 03 tập phim về Chiến thắng Bạch Đằng và 08 tập phim về Danh nhân Đất Việt do Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện!
Bên cạnh đó Nhà văn Đào Ngọc Du vừa cùng Hội đồng Họ Đào Việt Nam hoàn thành công trình đồ sộ Họ Đào Việt Nam với gần ngàn trang in khổ lớn! Ngoài ra ông còn viết một số ấn phẩm riêng về người họ Đào, như: Người họ Đào Việt Nam thời hiện đại, Nxb Lao Động 2015; Đào tộc nhân vật chí, Nxb Hồng Đức 2016; Họ Đào Việt Nam, các nhà khoa bảng xưa, Nxb Hồng Đức, 2016…
- Chân dung một Nhà văn giữa trang đời
Từ sinh kế mà hóa nên nghiệp văn, nghiệp đời, hóa nỗi đam mê, đã biến cậu bé Đào Ngọc Du của làng Đông Kinh, xã Thái Thuần, Thái Thụy, Thái Bình năm xưa thành một Nhà văn Đào Ngọc Du lão luyện giữa Thủ đô hôm nay, ấy là phải là cái duyên văn chương mà trời đất đặt vào ông sâu nặng lắm.
Văn nhân Đào Ngọc Du sinh năm 1937, hiện ông là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam. Tám mươi bảy tuổi đời, Đào tiên sinh vẫn đang hối hả xuôi Nam ngược Bắc cùng sự minh mẫn, nhanh nhẹn và tươi trẻ.
Với tư duy và tính cách văn chương ấy, cộng với sự cần mẫn và nguồn nội lực sáng tác luôn dào dạt trong ông, tôi tin rằng bức chân dung văn chương của ông sẽ còn liên tục được cập nhật và làm tươi, làm mới bằng những tác phẩm mà ông đang ấp ủ!
Hà Nội, trước thềm năm mới 2024!
K.L.B