ĐI TRÊN NHỮNG NHỊP CẦU BUỒN
Bút ký BÙI QUANG THANH
Đường về Hương Giang, một tấm biển to tướng,
ngay ngã ba Thủy Lâm thuộc đất Chu Lễ cũ ghi
rõ: “Cầu hỏng. Cấm các loại xe!”.
Chiếc cầu treo như chiếc đàn Tơ Rưng của đồng bào
Tây Nguyên, khổng lồ, cũ kỹ, ọp ẹp, vắt qua đôi bờ dòng
sông Ngàn Sâu thăm thẳm. Trong những gợn gió thu,
chiếc cầu - chiếc đàn dây ấy - như đung đưa, như run lên
nhè nhẹ. Cái run của một kẻ ốm yếu bị căng ra nơi đầu
gió hay cái run chợt bật ra từ bụng, từ chân tôi, một thằng
lính đã từng vượt qua bao nhịp cầu mây, cầu gió, cầu cáp
trượt ở Trường Sơn. Cái run của sự bất ngờ, sự không hình
dung nổi rằng: lúc này, ở đây, lại tồn tại một chiếc cầu quá
đáng như vậy.
Tôi ngần ngại ngó quanh. Dòng Ngàn Sâu ngoằn
nghoèo uốn lượn. Đứng từ mố cầu phía tây có thể nhìn
thấy hai đầu thượng, hạ nguồn vì cầu bắc trên một mỏm
đồi ăn nhoài ra ngoài mép nước. Không bóng dáng một
bến đò ngang. Cô Hà Thanh, người thân của tôi từ Sài Gòn
về thăm quê - một làng dân Đức Thọ đi làm “kinh tế mới”
từ trước thời Mỹ chưa đánh phá miền Bắc, nằm trong xã.
Chỉ có một con đường bộ duy nhất nối xã Hương
Giang với trung tâm của huyện Hương Khê. Con đường
được tạo bằng đất đá, rộng 5 m, dài 7.000 m từ phía nam
Chu Lễ, xuyên qua đồng ruộng, làng mạc đến tận dãy
Trà Sơn. Con đường ngoằn nghèo, chốc chốc bị đứt đoạn
từng khúc như da rắn cạp nong bởi vô số sông suối. Nối
những quãng đứt đoạn ấy là những chiếc cầu bằng gỗ
đơn sơ. Xã Hương Giang có thế sơn thủy thật hữu tình:
núi xanh điệp trùng án ngữ sau lưng, dân cư phân bố theo
chiều dãy núi như thế “tựa sơn”. Dòng Ngàn Sâu song
song với núi Trà Sơn tạo thành vách ngăn phía tây, cung
cấp cho ruộng đồng dòng nước mát lành và những hạt
phù sa khan hiếm. Với 1.500 hộ dân, trên 6.000 nhân khẩu
(trong đó 1/3 là đồng bào giáo dân, 135 hộ dân đi kinh tế
Hương Giang - chỉ tay về đoàn người gồng gánh phía bên
kia sông, nơi con đường đất đỏ gò lưng lách tránh một
triền sông lớn: “Người ta vẫn qua lại được đấy. Cháu ạ.”
Tôi mạnh bạo đặt chân lên những tấm ván cầu. Gió như
chợt mạnh lên. Chẳng biết vì gió lay hay vì trọng lượng
của cô cháu tôi và chiếc xe máy mà “tấm đàn Tơ Rưng”
oằn xuống, các sợi dây cáp chủ rỉ sét, xơ tướp rung rung,
mỗi bước đi phát ra những tiếng rền rĩ kẽo kẹt. Chúng tôi
dò từng bước, chọn những tấm ván ngang có vẻ còn tốt,
nhón nhén đặt chân. Dòng sông cuồn cuộn, hút hắt loáng
thoáng trôi qua kẽ hở các tấm ván xa đến chóng mặt. Cô
Hà Thanh như nín thở, tay dò theo thanh sắt góc làm lan
can cầu. Đoạn giữa dòng sông, những thanh lan can gãy
đứt đoạn đến hàng mét, tôi phải dừng lại để cô bám vào
yên xe máy đi cho vững. Những tấm ván cầu mỏng tang,
chẳng có gì đảm bảo giữa trời nước chênh vênh. Cảm giác
như dưới lòng sông hoăm hoắm kia, cặp nanh thủy thần
đang nhe ra, chờ một vật gì rơi tõm xuống...
Chỉ có một con đường bộ duy nhất nối xã Hương
Giang với trung tâm của huyện Hương Khê. Con đường
được tạo bằng đất đá, rộng 5 m, dài 7.000 m từ phía nam
Chu Lễ, xuyên qua đồng ruộng, làng mạc đến tận dãy
Trà Sơn. Con đường ngoằn nghèo, chốc chốc bị đứt đoạn
từng khúc như da rắn cạp nong bởi vô số sông suối. Nối
những quãng đứt đoạn ấy là những chiếc cầu bằng gỗ
đơn sơ. Xã Hương Giang có thế sơn thủy thật hữu tình:
núi xanh điệp trùng án ngữ sau lưng, dân cư phân bố theo
chiều dãy núi như thế “tựa sơn”. Dòng Ngàn Sâu song
song với núi Trà Sơn tạo thành vách ngăn phía tây, cung
cấp cho ruộng đồng dòng nước mát lành và những hạt
phù sa khan hiếm. Với 1.500 hộ dân, trên 6.000 nhân khẩu
(trong đó 1/3 là đồng bào giáo dân, 135 hộ dân đi kinh tế mới,
xã còn có đội trồng rừng của Lâm trường Hà Đông.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hương Giang là hậu cứ của
Đoàn 559 và Sư đoàn 308. Rừng núi xóm làng rợp bóng
ngàn cây đã che chở cho Bệnh viện tiền phương của bộ
đội Trường Sơn và nhiều đơn vị huấn luyện của Sư đoàn
Quân Tiên Phong. Sản phẩm ở đây là lúa, ngô, khoai, sắn,
đậu, lạc, mía, vừng và những vườn cây ăn quả. Nông sản
từ đây ra đi bốn phương, hàng hóa từ bốn phương về đây
phục vụ nhu cầu cuộc sống, tất cả chỉ một con đường độc
đạo đã nói ở trên.
Thế mà đã 3 năm nay xe vận tải (kể cả loại bé nhất là
công nông) không vào được Hương Giang. Cửa ngõ đầu
tiên, cũng là yết hầu của xứ này - chiếc cầu treo ấy - bị
hỏng nặng. Mọi việc sửa cầu hầu như đình lại. Người ta
chờ một chiếc cầu mới. Nghe đâu sẽ có nay mai... Nhưng
ai chờ thì cứ chờ. Ai đợi cũng chẳng thể ngồi đợi mãi. Mưa
nắng, lũ lụt cứ về, cầu cứ mai một dần, dẫu vậy người
ta vẫn phải đi về kiếm sống, trẻ em vẫn phải ra huyện
học hành, người vẫn phải viếng thăm nhau, trâu bò cũng
phải dò từng bước trên chiếc võng ấy. Từ người can đảm
đến con vật vô tri, tất cả cứ run rẩy giữa lưng trời, trên
phím Tơ Rưng khổng lồ như treo từ thời nguyên thủy tới
nay. Nghe nói từ khi sinh ra đến giờ cầu chỉ mới được sửa
chữa hai lần mà cũng chỉ thay gióng treo, ván sàn. Từ năm
1998, cầu không thể làm phận sự của nó được nữa. Và tấm
biển được trưng lên thay cho những người công nhân giao
thông đến bảo dưỡng chăm sóc cầu. Người Hương Giang
ngày ngày tháng tháng đứng ngó sang những con đường
nhựa ngon lành với từng đoàn xe cộ phía bên kia sông,
nơi trục tỉnh lộ 15A song song với dòng Ngàn Sâu mà
không khỏi ngậm ngùi cô độc giữa thời buổi công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chúng tôi dắt xe đi trên những chiếc cầu đa phần là cũ
kỹ mục nát mà không khỏi run chân. Đây là cầu Mỏ Đẻn
dài 62 m trên đường vào khu trung tâm “kinh tế mới” có
200 hộ dân và một đội trồng rừng. Chiếc cầu gỗ đã 20 tuổi
do vốn của dân tự góp. Khe suối sâu, thành suối dựng
đứng chứng tỏ dòng nước về mùa mưa rất dữ. Chiếc cầu
cũ kỹ, bàng bạc mốc, ván gỗ ải mục nhiều, có đoạn ván gãy
há hốc mõm dễ chừng nửa con bò mộng cũng lọt thỏm.
Bác Hợi bảo đã có 3 người dân trong xã bị rớt xuống cầu
này trong năm 1999. Tôi nhìn xuống cầu, nhìn mặt nước
đục nhờ nhờ xa xôi mà không khỏi rùng mình. Ngã xuống
đây, què cụt là điều còn may mắn lắm. Rồi cầu Ma Ka bị
lũ cuốn trôi năm ngoái chưa làm lại, cầu cửa Rôộc, cầu
Nhà Thánh, cầu Bà Dần, cầu Ông Nễ... những cái cầu có
cái tên mộc mạc thân thương ấy, dù gánh trên thân mình
trọng trách lớn lao là đảm bảo cho sự sống giao lưu giữa
đôi bờ ngăn cách, nhưng hãy ngắm nhìn thân thể, xương
Bác Lê Văn Hợi đưa tôi đi thăm những chiếc cầu khác
trong nội xã. Phải nói trên đất Hà Tĩnh ít có nơi nào nhiều
cầu như nơi đây. Cái thế núi bọc sông ngăn thơ mộng
thật nhưng cũng có nhiều bất lợi. Mùa mưa lũ, ngay cả
giữa những ngày hè nắng hạn, chỉ một cơn giông, nước từ
núi băng xuống sông tạo ra trăm ngàn dòng xói. Nhỏ yếu
thì thành mương thành lạch, dữ dằn thì thành suối thành
khe, thậm chí thành sông. Xóm làng bị cắt chia, nhà nhà bị
cắt chia vì nước. Nhân dân đã tự lực làm 53 chiếc cầu gỗ,
trong đó có 16 cầu dài trên 60 m. Nhưng sức dân, của dân
có hạn, nhà nông sắm được cái cuốc cái cày đã khó khăn,
nói chi đến việc tự túc xây dựng cầu đường. Mà chỉ tính
về việc xây dựng giao thông nông thôn ở đây thôi, thắng
được mưa trôi lũ cuốn để giữ lấy những con đường đất
dài ngót 24 km như hôm nay cũng là một kì công rồi.
cốt chúng mà xem: tất cả đều già yếu, ốm o đến thảm hại.
Qua cầu Ông Nễ để vào nhà Chủ tịch Lương Xuân Đồng,
chúng tôi dắt xe đi trên mặt ván vênh nghiêng đến chóng
mặt. Tôi chợt nhớ đến những chiếc cầu mây Trường Sơn
năm nào trong nhịp rung của bước chân người lính và câu
thơ của Phạm Tiến Duật:
Qua cầu chẳng sợ gió bay/ Chỉ sợ cầu treo chòng chành
em ngã/ Anh cố ép nỗi lo mà sao khó quá/ Cầu nghiêng, cầu
nghiêng con cá bồn chồn...
Ngày ấy, những con cá ngây thơ mà nhân ái còn biết
lo cho bước chân cô Giải phóng quân trên những nhịp cầu
cây lát vội. Còn bây giờ? Ai lo cho sự yên lành của những
người dân đang sinh sống ở đây - nơi một bước chân gặp
một nhịp cầu buồn.
Khi được hỏi về hướng giải quyết vấn đề cầu cống ở
Hương Giang, Chủ tịch xã Lương Xuân Đồng nói: “Riêng
cầu treo Hương Giang, chúng tôi nhận được thông tin
không chính thức là sẽ làm(?). Còn hàng mấy chục chiếc
cầu liên thôn, liên xã thì chúng tôi rất cần, rất mong sự hỗ
trợ của trên để tạo điều kiện cho chúng tôi động viên sức
dân hoàn thiện dần hệ thống giao thông nông thôn. Đã 3
năm nay mặc dù cách thị trấn 7 km và cách trục đường
tỉnh lộ 15A một tầm tay nhưng chúng tôi bị cô lập hoàn
toàn về phương tiện vận tải cơ giới. Cả xã chỉ còn 8 xe
công nông loại bét dem quanh quẩn từng làng vì cầu yếu
không thể qua lại. Chính thế mà việc xây dựng cơ sở vật
chất, phát triển kinh tế gần như ngồi chờ. Mà ngồi chờ là
tụt hậu”. Bí thư Đảng ủy Đậu Ngãi thì bảo: “Từ khó khăn
này đẻ ra khó khăn khác. Mấy năm trước đây, tỉnh giao kế
hoạch cho Hương Khê trồng 2.000 ha mía để cứu nhà máy
đường Linh Cảm, Hương Giang là đất mía đường truyền
thống, đã một thời đường phèn, đường thỏi, mật mía ở
đây thống trị nhiều nơi. Huyện giao kế hoạch cho Hương
Giang phải trồng 120 ha nhưng dân không làm mía. Họ có
lý do là cầu đâu để ô tô vào chuyển mía đi”.
Những cán bộ chủ trì của Hương Giang đều có chung
một ước vọng: những cây cầu. Mà đâu chỉ có họ, cả 6.000
dân ở đây, cả những người dù không ở đây nhưng từng
đến đây chỉ một lần thôi, chắc ai cũng có mong ước đó -
mong ước một ngày gần đây nhất, vùng đất không heo
hút nhưng đang bị lãng quên này được nối với cộng đồng
xã hội bằng những nhịp cầu đáp ứng yêu cầu dân sinh và
phát triển hôm nay.
Ai sẽ là người sát cánh với nhân dân Hương Giang
thực hiện ước vọng đó?
Hương Khê, tháng 10.2000
Người gửi / điện thoại