Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân

TS. BÙI NHƯ HẢI GIỚI THIỆU THƠ NGUYỄN VĂN TRÌNH

Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi (*)

 



 

TS. Bùi Như Hải

 

anh_trinh_4

NHÀ THƠ NGUYỄN VĂN TRÌNH


Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Văn Trình hiện là Hội viên Hội Văn học nghệ

thuật tỉnh Quảng Trị. Anh sinh ngày 04 tháng 01 năm 1960, tại làng Lạng Phước,

Đông Lễ, Đông Hà, Quảng Trị. Anh từng gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam

và tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, sau đó anh chuyển ngành về học Đại

học khoa Ngữ văn, tại trường Đại học Sư phạm Huế. Sau bốn năm miệt mài học

tập, nghiên cứu và rèn luyện anh đã tốt nghiệp và về nhận công tác giảng dạy tại

trường THPT Bồ Bản, Triệu phong, Quảng Trị. Do nhu cầu của ngành giáo dục

đào tạo Quảng Trị, anh lần lượt được thuyên chuyển công tác giảng dạy đến các

trường THPT Đông Hà, THPT Lê lợi, THPT Phan Châu Trinh và THPT Chế Lan

viên. Cuối năm 2017 Nguyễn Văn Trình được nghỉ hưu theo chế độ. Duyên thơ

đến với anh rất sớm, ngay những năm tháng còn là học sinh ngồi trên ghế nhà

trường, anh đã viết thơ. Những bài thơ anh viết rất hồn nhiên, tươi vui, được lưu

giữ ở những tờ báo tường, những cuốn Lưu bút của thời còn cắp sách đến trường.

Những năm tháng tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, anh tiếp tục sáng tác

thơ, lần này anh gửi cho các báo và tạp chí xem có được đăng thơ mình không và

vui thay những bài thơ anh gửi đều được đăng, như các bài : Em về bên ấy, Em về

cho ai chơi vơi, Chiều An lạc,… là những bài thơ được đăng đầu tay và được báo,

tạp chí gửi về tại đơn vị, được các đồng chí, đồng đội đón đọc, khen ngợi và

khuyến kích, động viên anh tiếp tục viết thơ để được phổ biến rộng rãi, lan tỏa hơn

nữa. Rời quân ngủ, vào môi trường sinh viên anh càng có cơ hội để sáng tác thơ

hơn. Những bài thơ anh viết ra đều được in trong các tuyển tập thơ văn: Gương

mặt thời gian của trường Đại học Sư phạm Huế và một số báo, tạp chí Trung ương

và địa phương. Thơ Nguyễn Văn Trình lúc này không chỉ có lực lượng đọc giả là

thầy cô và bạn bè mà còn bạn đọc gần xa trong cả nước biết đến và yêu mến, đón


nhận một cách nồng nhiệt. Với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ, đầy tâm

huyết nên đã hun đúc Nguyễn Văn Trình hạ sinh đứa con đứa con tinh thần

đời của mình sau bao nhiêu năm ấp ủ, đó là tập thơ Mây trắng bên trời, do Nhà

xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Tập thơ vừa mới trình làng thì bạn đọc đã

đón nhận, các cây bút phê bình, lý luận quan tâm rốt ráo, đánh giá khá cao, góp

phần nâng thêm đôi cánh để Nguyễn Văn Trình tự tin bước vào làng thơ Việt Nam

đương đại.Nguyễn Minh Hoàng ThS Ngữ văn, trong bài viết Khung trời mây trắng

đã nhận định rất đúng về văn phong của Nguyễn Văn Trình, khi cho rằng: “Tập thơ

Mây trắng bên trời gói trọn những cảm xúc của thi sĩ về đời, người, nghề và những

niềm sâu kí ức. Đọc những vần thơ của anh ẩn chứa những năm tháng cuộc đời, tôi

bắt gặp cái sâu sắc trong cách nhìn, cái tinh tế trong cách cảm, cái đa dạng trong

cách thể hiện những tâm tư. Không cầu kì, không làm duyên, từng câu từng chữ

bình dị mà sang trọng, gần gũi như chính cuộc đời mà chứa đựng những triết lí sâu

xa. Bởi Nguyễn Văn Trình đến với thơ bằng tấm lòng của nhà giáo, bằng tâm hồn

đa cảm của một thi nhân, mang trách nhiệm thiên lương của một người dâng hiến.

Dâng hiến cho đời cái đẹp của tiêu chí nghệ thuật thơ ca: Chân-Thiện -Mỹ. Thơ

Nguyễn Văn Trình là sự dấn thân của một người luôn nặng nợ đa mang, với thơ

với đời”. Còn nhà thơ, nhạc sỹ Lê Đàn trong bài Những vầng mây không trôi đã có

những nhận định sắc nét, lẩy được cái hồn cốt của thơ Nguyễn Văn Trình qua tập

thơ, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng bên trời của thầy giáo - thi sĩ Nguyễn Văn

Trình là những vầng mây không trôi. Bởi thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh, để lại

trong tôi ấn tượng khó phai sau mỗi lần đọc. Và tôi tin những nõn mây trắng làm

dịu mát lòng người kia sẽ còn mãi với trời xanh, mây trắng”.

Quê hương và đất nước là một đề tài không bao giờ vơi cạn trong trong dòng

chảy văn học Việt Nam. Ở địa hạt thơ - dòng riêng trong nguồn chung thì đề tài

này cũng là một mạch nguồn cảm hứng chủ đạo dạt dào xuyên suốt nên mỗi nhà

thơ trong sự nghiệp sáng tác của mình cũng đều viết về đề tài này. Nhưng mỗi nhà

thơ lại có cách tiếp cận, tìm tòi và khám phá riêng, từ đó để lại dấu ấn đậm nhạt


trong lòng bạn đọc cũng khác nhau. Nguyễn Văn Trình là một nhà thơ viết nhiều

và khá hay về đề tài quê hương đất nước. Đông Hà, Quảng Trị - nơi sinh ra, lớn lên

và trưởng thành, gắn bó hơn sáu mươi năm nay đã được nhà thơ Nguyễn Văn

Trình cảm tác viết lên những bài thơ chất chứa đầy tâm trạng tươi vui, tự hào, như

Hiếu Giang xanh, Phố thương, Đông Hà ngày mới, Thành phố ngã ba sông, Huyền

sử một dòng sông, Chiều An Lạc,… Dẫn dụ như đọc giả đọc bài thơ Đông Hà ngày

mới sẽ thấy được một sự mến yêu, tự hào của nhà thơ Nguyễn Văn Trình đối với

quê hương của mình. Bài thơ như chính khúc ruột, chính dòng máu chảy của người

thơ, mang hồn cốt của quê hương xứ sở và một tấm lòng chân thành, đôn hậu của

một người con quê hương miền Trung dấu yêu:


Tôi yêu Đông Hà, tự thuở nào thơ dại

Thành phố muôn đời, ngự trị trong tim

Từ buổi cấp hai, cấp ba thời còn đi học

Kỷ niệm nào, lưu dấu tuổi học đường


Hiếu Giang xanh yêu thương biết mấy

Tắm mát tuổi học trò sông Cái sông Con

Tuổi thơ qua đi dòng sông ở lại

Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi

(Đông Hà ngày mới)

Bài thơ Phố thương cũng đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó

quên. Vẫn theo cái quy luật tuần hoàn của đất trời vần vũ mà sao cứ làm ta vấn

vương bởi những gam màu khác lạ trong bốn mùa của một một thành phố trẻ Đông

Hà. Bức tranh bốn mùa trong thơ ca truyền thống thường thì mùa Thu là mùa của

lá vàng bay, mùa Hạ là mùa của những tiếng ve ngân vang, mùa Đông là mùa của

những hàng cây trơ cành, trụi lá và mùa Xuân là mùa vạn vật thay áo mới, cây cối

đâm chồi, nảy lộc,…Nhưng bốn mùa trong thi phẩm này lại mang dáng nét riêng

của một mảnh đất miền trung. Sắc màu mùa Thu Đông Hà không bâng khuâng,


đượm buồn mà kiêu sa, biêng biếc, thao thiết trong những buổi chiều mưa, lạc

bước câu thề:


Một mùa thu nữa kiêu sa

Đông Hà tím chiều mưa nguồn biêng biếc

Giọt sáng cuối ngày thao thiết

Chợt nhớ chợt thương lạc bước câu thề.

 


Vạn vật vần vũ, Thu qua Đông đến. Đông Hà vào Đông mưa bụi bay bay,

dòng sông Hiếu trong xanh chất chứa bao kỷ niệm nồng say đã làm xua tan cái

lạnh của mưa phùn, gió bấc, đìu hiu và quạnh buồn:

Đông Hà vào buổi cuối đông

Có dòng sông Hiếu, xanh trong tháng ngày

Có trời mưa bụi bay bay

Từ trong kỷ niệm nồng say bao điều.


Và một mùa Xuân đủ muôn màu sắc thắm, rộn rã, rực rỡ và tràn đầy sức

sống tươi trẻ, tinh khôi của một thành phố Đông Hà trăm nhớ nghìn thương. Không

gian xuân bừng lên trong sắc màu cờ hoa, rộn ràng của người mua kẻ bán… Cảnh

mùa Xuân đầy quyến rũ, đắm say, với bao cảm xúc thiết tha, đằm thắm. Hình ảnh

đưa người viễn phố du xuân đã vút lên một niềm tin ngời sáng, một niềm tình yêu

gắn kết giữa con người và thiên nhiên:

Đông Hà vào xuân rực rỡ

Cánh mai vàng duyên nợ thi nhân

Hạt sương đọng trắng lá cành

Hoa sen trắng tỏa hương thơm ngào ngạt

Đưa người vào viễn phố du xuân.

(Phố thương)


Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đông Hà

cùng chung tay náo nức dựng xây lại thành phố to đẹp và đàng hoàng hơn, phố xá

được mở rộng, nhà cao tầng san sát mọc lên nhanh chóng, những khu công nghiệp,


nhà máy, công ty, xí nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài đã đầu tư đem lại

nguồn lao động, cung cấp việc làm cho rất nhiều người dân nên đời sống nhân dân

ngày càng ấm no, khởi sắc hơn:


Đông Hà - thành phố ngã ba sông

Em biết không?

Thành phố mình đáng yêu là vậy

Chỉ bảy năm thôi mà biết bao thay đổi:

Đại lộ Hùng Vương vươn dài từng con phố

Những tòa nhà nối nhau san sát

Tầng thấp tầng cao tạo dáng phố phường

Có ngôi chùa cổ kín thân thương

Tiếng chuông ngân mỗi sớm mỗi chiều

Đông Hà phố, gợi niềm yêu quê da diết

Phương trời nào cũng nhớ một ngã ba sông

(Thành phố ngã ba sông)

Hình ảnh thành phố Đông Hà luôn gắn với hình ảnh con sông Hiếu rất đỗi tự

hào. Huyền sử dòng sông Hiếu mãi ngân vang những chiến công đánh đuổi giặc

thù, tiếp nối mạch nguồn của khí linh nguồn cội anh hùng, đảm đang, bất khuất để

cùng chung lưng đấu cật dựng xây làm nên vóc dáng sinh động của một thành phố

trẻ Đông Hà sầm uất trên trục đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và trên

tuyến đường xuyên Á, hành lang kinh tế Đông- Tây:


Cuộc chiến qua đi

Sông lại hát tình ca 

Ôi dòng sông, chở nặng phù sa 

Mà làm nên những cánh đồng, bờ bãi

Tắm mát bao cuộc đời, dầu dãi nắng mưa 

Hiếu Giang xanh, xanh tựa màu trời

Cửa Việt trung trinh, nghĩa tình vời vợi


Hồn thiêng đất nước, âm ba muôn đời…

(Huyền sử một dòng sông)

Thiết nghĩ có rất nhiều nhà thơ viết về thành phố Đông Hà nhưng hẳn nhiên

vẫn chưa đủ, chưa xứng tầm vóc lịch sử của một thành phố trẻ nên vì thế cần phải

có thêm những nhà văn thể hiện tình yêu của mình qua những tác phẩm truyện

ngắn, tiểu thuyết, tùy bút và phóng sự mới làm đầy lên hình ảnh của Đông Hà ở đôi

bờ sông Hiếu đang vươn mình lớn dậy từng ngày trong thời kỳ đổi mới một cách

đa dạng và phong phú hơn.

Quê hương thiêng liêng - nơi lưu giữ những mảnh kí ức tươi đẹp. Nơi đong

đầy những tấm lòng, tình yêu thương chân thật vì thế nhà thơ Nguyễn Văn Trình

đã bồi hồi xúc động, tự hào mỗi khi đến những địa danh của quê hương mình.Cửa

Tùng vùng đất một thời chiến tranh đầy đạn bom nhưng đã bừng sáng, mang dáng

dấp của một thành phố biển trong tương lai. Những ngôi nhà kiên cố, cao tầng mọc

lên san sát, những nhà hàng, quán sá khang trang, lộng lẫy, những cồn cát và biển

xanh ngắt,… làm say đắm hồn người. Vua Duy Tân đã coi đây là một vịnh nhỏ có

màu ngọc lục bảo tuyệt đẹp:


Khi anh về với biển Cửa Tùng

Biển mặn khiến lòng anh xao xuyến

Gió hát xôn xao lồng lộng bến bờ

Bãi Nữ Hoàng thiết tha bao nỗi nhớ


Biết nói gì trước biển chiều nay

Trước xanh xa, thanh khiết bao ngày

Trước vẻ đẹp nồng say của biển

Trước giản dị hồn nhiên cuộc sống con người

(Về với biển Cửa Tùng)


Đúng như dự cảm của nhà thơ Ngô Kha: “Rồi sẽ thấy và nhất định thấy. Một

đô thị vàng trên đồi Lao Bảo. Một thị trấn yêu kiều qua ngả Làng Vây”. Tình yêu


quê hương chính là sức mạnh vô bờ để dựng nên một Khe Sanh, Hướng Hóa giàu

đẹp, văn minh, rất đáng được tự hào. Viết về mảnh đất dấu yêu ở phía Tây của quê

hương mình, Nguyễn Văn Trình có những bài thơ khá hay như Khe Sanh ngày

mới, Khe Sanh đêm hội quán,...Đến với những bài thơ này đọc giả sẽ tưởng chừng

như mình đã từng sống và gắn bó với mảnh đất này nên đủ để yêu thương, đủ để

đất hóa tâm hồn của mình để gọi là quê hương:

Anh đến Khe Sanh một buổi chiều

Nghe rừng vẫy gọi thác đăm chiêu

Đường lên uốn lượn theo chiều gió

Dốc xuống quanh quanh, ấm câu hò


Khe Sanh mới đó, lung linh quá

Nắng vàng gió mát dạ chơi vơi

Núi cao từng dải trời xanh thẳm

Thị trấn nằm sương núi mây vờn


Chính tình yêu quê hương của người thơ là nguồn nước mát lành chảy

mãi đổ ra đại dương để hội tụ thành tình yêu đất nước. Là một nhà giáo nên

luôn bị câu thúc bởi thời gian công việc giảng dạy và gia đình nhưng Nguyễn Văn

Trình vẫn luôn tranh thủ thời gian của những ngày tháng hè để rong ruổi đến

những vùng quê của đất nước. Trong một lần đến Đại Lải nhà thơ Nguyễn Văn

Trình tràn đầy cảm hứng trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng đã viết

ngay một chùm thơ như Chiều Đại Lải, Với Đại Lải, Đại Lải vào xuân,... Mỗi bài

thơ là một cung bậc của xúc cảm, của tâm trạng chứa đầy niềm hoan ca, tràn đầy

vui sướng trước cảnh và người nơi đây, trước những đổi thay tươi sáng. Bài thơ

Với Đại Lải như chính tâm hồn rạng ngời, vui tươi của người thơ nên diễn ngôn

trong lập tứ và ý thơ rất tự nhiên, trong trẻo. Cảnh vật và con người như người bạn

tri ân đã mời gọi nhà thơ từ lâu. Giữa không gian thơ mộng đầy màu sắc, âm thanh


của nắng gió, cỏ hoa, hồ nước trong xanh và sắc lụa Hà Đông rạng ngời em gái

chan chứa nghĩa tình đã làm say hồn người thơ:


Nắng nghiêng chiều soi gương hồ Đại Lải

Gió mơn man hôn mãi mộng đồi thông

Em rạng ngời trong sắc lụa Hà Đông

Ôi Đại Lải ru lòng tôi đến vậy!?

Lời tự tình hây hây đôi má đỏ


Đại Lải chiều nắng gió hanh hao

Nắng rất mỏng xuyên qua từng kẻ lá

Rừng thông già dạt dào bao giấc mộng

Xanh tháng năm lặng sóng mặt hồ

Êm ả thế như tình em đằm thắm

(Với Đại Lải)


Nhà thơ Nguyễn Văn Trình ước mơ ít nhất một lần trong đời được đến thủ

đô Hà Nội và khát khao ấy cũng đã trở thành hiện thực. Thể hiện tình yêu với thủ

đô Hà Nội dấu yêu- trái tim hồng của cả nước - trong chuyến đi này, Nguyễn Văn

Trình đã sáng tác bài thơ Trong tôi Hà Nội. Đến với bài thơ bạn đọc cảm thấy

mình như được hòa vào không gian thơ mộng, dịu dàng của mùa thu Hà Nội. Một

mùa thu yên ả, nắng thu vàng buông chiều, những con phố nhỏ nồng nàn mùi

hương hoa sữa, những hồ nước thoang thoảng thơm ngát mùi hoa sen, những hàng

liễu rũ, bất chợt những cơn mưa rào ngúng nguẩy,... đã đọng lại bao niềm nhung

nhớ:


Hà Nội trong tôi, nắng vàng dịu ngọt

Mây lững lờ trôi nhè nhẹ giữa trời thu

Lộc vừng rơi đầy lối

Hoa sữa thơm nồng nàn

Màu lá bàng đỏ thắm


Đọng bao niềm nhớ nhung

(Trong tôi Hà Nội)


Những con phố, những địa danh lịch sử của Hà Nội cũng được Nguyễn Văn Trình

ghi dấu sâu sắc trong thơ, đọc lên nghe như mời gọi xao xuyến lòng người đi kẻ ở:


Hà Nội trong tôi, giấu bao niềm ký ức

Dạo chơi ba mươi sáu phố phường

Sao nghe vương vấn, dấu thương trong lòng

Chùa Trấn Quốc, đường Đê La Thành

Chợ đêm, phố cổ, Ba Đình, Hồ Tây

Lũy Hoa lửa khói, cốm đây Làng Vòng ….

Hà Nội kỷ niệm vơi đầy

Để người đi, luyến lưu bao nỗi nhớ

Ngày trở về, ghi tạc những vần thơ !!!

(Trong tôi Hà Nội)

Và đến với xứ Lạng người thơ không chỉ ngỡ ngàng, rạo rực trước vẻ đẹp

của núi đồi quanh co, trùng điệp, nắng chiều khói sương, mà còn say men tình, hân

hoan hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người thương, để rồi vấn vương, ra về chân

bước không rời, bời bời nhớ nhung:

Tôi lên xứ Lạng tìm em

Tìm trong câu hát, mênh mang nắng chiều

Đường đèo nên dạ liêu xiêu

Chập chùng non thẳm, mắt nhiều khói sương


Ra về lòng lại vấn vương

Ngàn thu chân bước, thương thương không rời

Ra về lại nhớ bời bời

Trăm năm vẫn đợi,một người trăm năm.

(Tìm về xứ Lạng)


Còn đến với Tam Đảo thị trấn mù sương, Nguyễn Văn Trình đã có một chùm thơ

khá hay về điểm tham quan du lịch hấp dẫn của đất nước, các bài thơ:Tam Đảo

mây, chiều lên Tam Đảo …


Tam Đảo bồng bềnh, Tam Đảo mây

Không bãi không bờ, mây tựa biển

Một màu sương trắng, mây- núi - mây

Dốc đèo uốn lượn, kià ba đỉnh :

Thiên Thị, Phù Nghĩa, tả hữu vây

Đỉnh trung : Bàn Thạch đầy sương sớm

Thác Bạc, Chùa Vàng khách khách say...


Tam Đảo về đêm, nhấp nhô phố

Chập chùng cao thấp, Lộ đèn vàng

Phố lượn thanh thang, quanh sườn núi

Sương giăng bàng bạc, bụi trúc ngà

Từng đôi giai nhân qua dạo phố

Thướt tha bách bộ, dáng thành đô.


Tam Đảo kia rồi... ! Tam Đảo mây,

Bỗng đâu hương rừng, ngây ngất lạ

Thông xanh lá biếc, dựng trời mây

Bóng ai thấp thoáng, ven đèo ấy ...?!

Mây treo, sương quyện mắt vơi đầy

Hây hây má đỏ, trong ngày mới

Bâng khuâng Tam Đảo, đợi Em về ... !


( Tam Đảo mây )

Tam Đảo trong thơ Nguyễn Văn Trình thực sự là một thiên đường du lịch nghỉ

dưỡng. Trên đỉnh núi mù sương bỗng nhiên có một thị trấn nhỏ, mây mù bao phủ,

hoa nở quanh năm và khắp nơi, cảm giác như ta lạc bước thiên đường vậy. Đến với

Tam Đảo ta như chạm đến một thứ không biết là sương hay là mây, nó mờ ảo bay

bay thật huyền diệu:


Chiều lên Tam Đảo, mưa tầm tả

Đường trơn, đá trượt mấy vòng xe

Sương mờ ấp ủ, vờn khe núi

Mưa trắng đèo mây, núi trắng mây

Chiều mưa Tam Đảo, đầy hư ảo

Thị trấn giữa lòng, núi bao quanh

Khí hậu hanh hao, rõ bốn mùa:

Sáng có se se ngọn gió Xuân

Trưa lên nồng ấm, khí Xuân - hè

Chiều muộn heo may, thu lãng đãng

Đêm về lành lạnh, dáng mùa Đông.


Chiều lên Tam Đảo, mưa tầm tả

Ba ngọn núi nhòa, mưa trong mưa

Sừng sững uy nghi, thừa kiêu hãnh

Ẩn hiện làn sương, xanh xóm nhỏ

Ven đồi thảm cỏ, ngọn su su

Tơ non nhọn sắc chĩa lên trời

Như triệu mũi chông, nghìn đời trước

Đánh Tống, đuổi Nguyên... giặc tơi bời

Linh thiêng, tổ quôc ta ơi... !

Xin được một đời ngưỡng vọng

Tam Đảo yêu thương- mây sóng đẹp oai hùng ... !

( Chiều lên Tam Đảo)


Dẫu biết rằng tình yêu quê hương, đất nước có diễn ngôn đến tận cùng nỗi

lòng thì vẫn không thể diễn tả hết được. Nhưng qua những bài thơ về quê hương,

đất nước của nhà thơ Nguyễn Văn Trình và một số nhà thơ khác bạn đọc sẽ cùng

cảm với người thơ về tình yêu của mình dành cho quê hương, đất nước.

Là một người lính viết về người lính nên hình ảnh người lính trong thơ

Nguyễn Văn Trình hiện lên rất đỗi chân thực. Người lính nơi biển đảo Hoàng Sa

và Trường Sa ít phải chịu cảnh vượt suối, trèo đèo vì “ngàn thước lên cao, ngàn

thước xuống”, phải “mưa dầm cơn vắt”,…như người lính trong đất liền. Nhưng

người lính biển đảo vẫn có những gian khó, hiểm nguy và những thử thách nhất

định. Ở nơi đầu sóng ngọn gió một thời chiến tranh người lính hải đảo cùng chung

một ý chí, kiên cường bám đảo, bám biển để gìn giữ bờ cõi, ngư dân yên tâm tiến

ra biển cả đánh bắt hải sản:


Mấy trăm năm, kiên cường gìn giữ

Tiếng gươm khua, còn vọng đến bây giờ

Như lời thề giữ yên bờ cõi

Nơi đảo xa đêm ngày vẫy gọi

Thiêng liêng hai tiếng: Tổ quốc mình.


Biển đảo quê hương hình hài đất nước

Gần gũi yêu thương, ngõ xóm đường làng

Ta quyết giữ, hàng trăm hải lý

Thuộc chủ quyền biển đảo Việt Nam

Để ngư trường, mãi mãi của ta

Hoàng - Trường Sa biển đảo là nhà

Đã bao đời, ông cha gìn giữ.


Dẫu biết rằng sự gian khổ, thiếu thốn của người lính biển đảo không còn như

trước nữa. Đất nước đã hòa bình, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất

cũng như tinh thần ngày càng được cải thiện, nâng cao hơn rất nhiều.Tuy nhiên thì


người lính biển đảo vẫn có những thiệt thòi, mất mát nhất định khi phải sống xa gia

đình, vợ con, bạn bè, làng xóm và cả cuộc sống văn minh nơi đất liền,...Đặc biệt là

trong bối cảnh hiện nay khi mà biển Đông đang “dậy sóng” từng ngày, từng giờ,

biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, người lính biển đảo luôn phải đối mặt với kẻ

thù, với sự hi sinh mất mát thì ý chí, tư tưởng của người lính biển đảo càng mạnh

mẽ hơn, quyết một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Và sự thật đã

diễn ra trong những ngày hè nóng bỏng của tháng 05 năm 2014 Trung Quốc đã

ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép xâm phạm vùng biển chủ

quyền của nước ta. Hơn chín mươi triệu người dân trong cả nước dậy sóng căm

hờn, thể hiện lòng yêu nước, thương nòi thì người lính biển đảo chẳng hề nao lòng,

quyết tâm chặn đứng mộng xâm lăng không để một tấc biển, tấc trời rơi vào tay

giặc:


Bỗng một chiều, tháng năm thịnh nộ

Bọn người kia, hùng hổ xâm lăng

Chúng tham tàn, cướp biển đặt giàn khoan

Trấn áp ngư dân, tranh giành biển đảo

Biển đảo quê hương, dậy sóng căm hờn

Dẫu một tấc biển, tấc trời

Đều là lãnh thổ ông cha để lại

Ta quyết giữ, cho đời đời con cháu

Để mai này, còn biển ra khơi,….


Tháng năm này, biển Đông dậy sóng

Huế - Sài gòn - Hà nội,…. xuống đường

Yêu nước thương nòi, ngàn năm sống mãi

Căm cướp nước, thơ thành mũi chông ngọn giáo

Diệt tham tàn, chặn đứng mộng xâm lăng

Lòng yêu nước, chảy trong từng huyết quản


Con cháu rồng tiên,

Không khuất phục bao giờ…!?

Ta nhân nghĩa, chúng thì tàn bạo

Chẳng nao lòng, quyết tâm giữ đảo.


(Với biển đảo quê hương)


Trong không khí “nước sôi lửa bỏng” đó, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy"

một lần nữa đã trổi dậy một cách mạnh mẽ trong trái tim của giới văn nghệ sĩ yêu

nước. Cùng góp chung trên mặt trận văn hóa nghệ thuật nhà thơ Nguyễn Văn Trình

đã sáng tác bài thơ Với biển đảo quê hương. Bài thơ ra đời trong bối cảnh như vậy

đã tạo được một sự đồng cảm,làm lay động hàng triệu trái tim bạn đọc. Bài thơ có

một sự tác động to lớn đến công tác tuyên truyền và vận động toàn dân hướng về

biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu.

Không những là người lính biển đảo, người lính biên phòng cũng đã trở

thành một hình tượng đẹp trong thơ Nguyễn Văn Trình. Người lính biên phòng

trên các tuyến biên giới nước ta nói chung và Cửa Việt, Quảng Trị nói riêng đã

thầm lặng hi sinh tuổi thanh xuân của mình mà gánh vác trọng trách lớn lao của

Đảng và nhân dân giao phó, đó là bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới của Tổ

quốc. Người lính biên phòng vì vậy đã được các nhà thơ tôn vinh, mến yêu dựng

lên một hình ảnh đẹp qua những bài thơ trải dài theo năm tháng lịch sử. Trong số

những bài thơ viết về người lính biên phòng thì Người lính biên phòng Cửa Việt

của Nguyễn Văn Trình là một bài thơ khá hay. Bài thơ đã phác họa được hình ảnh

chân thực của những người lính biên phòng ở một số miền quê khác nhau đến đồn

biên phòng Cửa Việt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh

khá nhau, mỗi tính cách khác nhau nhưng lại có cùng chung một ý chí, một lí

tưởng, cùng chung tay vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, hi sinh tuổi xuân của

mình để bảo vệ biên cương. Có những lúc nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình và


người yêu da diết, trĩu nặng nhưng người lính biên phòng vẫn cố nén lại, tạm gác

tình riêng vì nghĩa lớn.Người lính biên phòng ngày đêm bám trụ biên cương, kiên

định tinh thần vượt qua mọi khó khan gian khổ, sẵn sàng xả thân trước mọi hiểm

nguy, giặc ngoại bang, tội phạm xuyên quốc gia,… để đất nước thanh bình, ổn định

và thịnh vượng.


Anh thao thức cùng ngư dân bám biển

Giữ vững chủ quyền, lãnh hải Việt Nam

Bước chân anh chưa hề mệt mỏi

Từ khơi xa, cho tới mỗi bờ gần

Lúc nào cũng có anh canh giữ

Với các anh đó là nhiệm vụ thiêng liêng

Cho hôm nay và cho cả ngày mai giữ biển

Những người lính Biên phòng Cửa Việt

Trăm quê riêng, về ở một đồn chung

Đoàn kết - yêu thương, trong một gia đình

Chung trách nhiệm: Bám bờ giữ biển

Da cháy nắng, bởi mặn mòi muối biển

Riêng nụ cười vẫn sáng mãi tin yêu

Anh vượt lên những khó khăn gian khổ

Có những khi nghiệt ngã của đời thường

Ngày như đêm,quyết hoàn thành trọng trách

Đồn là nhà, biển đảo là quê hương


(Người lính biên phòng Cửa Việt)


Là một thầy giáo, nằm trong ngành giáo dục nên Nguyễn Văn Trình đã dành

một góc rất riêng trong vườn thơ của mình những bông hoa tươi thắm nhất về nghề

giáo, trường lớp, tình đồng nghiệp và về tình thầy trò. Mảng thơ viết về đề tài này

là những bài thơ rất hay, được học sinh, đồng nghiệp yêu mến và được các nhạc sĩ

phổ nhạc như: Bài giảng giờ chia tay, Hoài niệm, Ngày tựu trường, Hãy nuôi


dưỡng ước mơ, Trường em trường TH Lê Lợi Đông Hà, Bài ca trường Phan Châu

Trinh, Bài ca trường Chế Lan Viên, nghề giáo của tôi ...


Lặng xuôi năm tháng trồng người

Bảng đen phấn trắng con đò nặng mang

Làm nghề giáo khó khăn nặng nhọc

Đời mãi vui, say đắm yêu nghề

Tháng năm dầu dãi Sơn khê

Con đò tri thức, thầy về sơm trưa


Làm nghề giáo đội mưa đội nắng

Trò qua sông thầy thấy yên lòng

Tâm trĩu nặng đầy vơi thương nhớ

Biết bao giờ trò trở lại bến xưa !?


Làm nghề giáo nặng lòng trưa sớm

Dạy cả tuần, cuối tuần chẳng nghỉ

Bên đèn khuya, vẫn miệt mài trang giáo án

Bận bịu quanh năm chẳng chút phiền lòng


Đời vẫn vui khi trải lòng cùng trò nhỏ


Làm nghề giáo khi đông về sương gió lạnh

Lòng vẫn ấm vì tình yêu trẻ nhỏ

Động lực giúp thầy vượt qua ngàn gian khó

Vững lái con đò đưa trẻ nhỏ qua sông


Làm nghề giáo có hạnh phúc nào bằng ?!

Nghề giáo đó với bảng đen phấn trắng

Gieo nghĩa nhân vào tâm hồn hoa nắng

Mang cho đời bao quả ngọt yêu thương


Mùa hiến chương, ơn đời ghi nhớ

Tình thầy trò nặng nghĩa cha con

Thầy lặng lẽ ươm trồng sự nghiệp

Nghiệp trồng người, cao quý biết bao nhiêu !?

( Nghề giáo của tôi )


Nguyễn Văn Trình có quãng đời rất đẹp của tuổi học sinh. Một thời đi học

và cắp sách đến trường cùng bạn bè, với thầy cô, trường lớp đã trở thành một kí


niệm đẹp không thể nhạt nhòa theo năm tháng. Khung trời mây trắng này cũng đã

bén duyên với anh thêm một lần nữa khi trở thành một thầy giáo gõ đầu trẻ. Ngôi

trường đã trở thành mái nhà thứ hai, gắn bó suốt cả một chặng đường dài trong

cuộc đời làm nghề giáo của anh. Mái trường nơi anh dạy học đã gắn bó, lưu giữ

biết bao tình cảm yêu thương với học trò, với đồng nghiệp. Tình yêu đẹp ấy đã

được hóa thân viết lên những vần thơ ngọt ngào về mái trường thân yêu của người

thơ với một giọng điệu ngợi ca, hãnh diện được dạy học ở mái trường mang tên

của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh:


Tự hào trường em,mang tên người chí sĩ

Chí sĩ Việt Nam vì nước quên mình

Phan Châu Trinh- Đông Hà trường em

Vì tương lai, vì ngày mai tươi sáng

Học hành chăm ngoan, quyết chí hăng say

Nắm chắc thành công bước vào ngày mới

Mái trường tầng cao, dạt dào yêu mến

Phan Châu Trinh- Đông Hà trường em

(Bài ca trường Phan Châu Trinh)


Mảng thơ viết về những ca khúc trường học, đáng chú ý Nguyễn Văn Trình

đã có những bài thơ phổ nhạc và trở thành những bản trường ca truyền thống của

các nhà trường, bài thơ : Trường em, trường TH Lê Lợi Đông Hà là một bài thơ

như thế :


Trường em,

Lớp lớp cây non mầm xanh vươn cao

Áo trắng tỏa về rực nắng xôn xao


Trường em,

Chắp cánh ước mơ , giữa khung trời rộng mở

Trên tầng cao lộng gió ước mơ

Cờ đỏ tung bay

Có ngọn cờ đào dựng nghĩa Lam Sơn

Tự hào trường em, Lê Lợi anh hùng .

Trường em, Lê Lợi Đông Hà

Chưa xa đã nhớ , ước mong ngày về

Tình quê gắn với tình trường

Yêu thương gắn với niềm tin dạt dào

Bao thầy cô, bao bạn bè yêu mến

Bao tháng năm, mãi mãi không quên

Quyết tâm học tập, rèn luyện đức tài

Sáng mãi trường em, Lê Lợi Đông Hà

Dâng bông hoa , truyền thống quê hương

Học hành tốt, tình nghĩa thầy cô

Chắp cánh cho em,


Bay cao bay xa, bay vào mơ ước ...

Trường em Lê Lợi Đông Hà

Trên tầng cao lộng gió ước mơ

Cờ đỏ tung bay

Có ngọn cờ đào dựng nghĩa Lam Sơn

Tự hào trường em, Lê Lợi anh hùng .


( Trường em, trường TH Lê Lợi Đông Hà)


Hãy nuôi dưỡng ước mơ là một bài thơ giàu tính nhân văn, thể hiện tâm

huyết của người thơ đối với nghề giáo. Từng chữ, từng câu trong bài thơ chính là

lời khuyên, sự răn dạy của anh đối với học trò của mình cũng như đối với thế hệ trẻ

hôm nay phải biết dưỡng nuôi những ước mơ, dự định tương lai. Với sự tâm huyết,

nỗ lực bước đi trên chính đôi chân của mình thì sẽ vượt qua được mọi khó khăn,

gian khổ và thành công, tương lai tươi sáng, tốt đẹp:

Cuộc sống, có muôn ngàn cái đích,

Vươn tới

Hãy chọn cho mình, một lối đi riêng

Em sẽ thấy, cuộc sống này đáng yêu biết mấy

Trời trên đầu vẫn xanh

Đất dưới chân,vẫn bình yên nồng ấm

( Hãy nuôi dưỡng ước mơ )


Hơn ba mươi năm dạy học, có biết bao thế hệ học trò thì có bấy nhiêu tâm

trạng, nỗi niềm. Mỗi thế hệ học trò, mỗi lớp học và mỗi học sinh đều được nhà thơ

- thầy giáo Nguyễn Văn Trình nâng niu, dạy bảo, xem như người em, người cháu


của mình nên khi các em chuẩn bị ra trường, chia tay là những lần chất chứa đầy

tâm trạng ngậm ngùi, rưng rức nước mắt:


Đó là bài giảng cuối cùng cho em

Mà sáng nay thầy giảng

và bắt đầu một cuộc chia tay…

Vội vàng cái buổi chia tay

Không phải lần đầu sao thầy rưng rức

Cả lớp nôn nao một thoáng ngậm ngùi…

Rồi tiếng cười thay nước mắt


(Bài giảng giờ chia tay)


Trong “dàn đại hợp xướng” thơ Nguyễn Văn Trình hiện diện những giai

điệu ngọt ngào, du dương và lãng mạn về tình yêu đôi lứa là chuyện thường tình.

Vì rằng trái tim của nhà thơ cũng đa cảm như bao người ở cõi nhân gian bé tí

này.Tình yêu trong thơ Nguyễn Văn Trình là tình yêu thuộc về thì quá khứ - cái thì

chất chứa bao hoài niệm của một thời xa vắng. Tình yêu trong thơ anh không có

kết thúc viên mãn, tròn đầy nên hương vị tình yêu chất chứa nỗi buồn, nuối tiếc.

Người thơ vương vấn nỗi buồn tình yêu của cái thuở ban đầu ban mai trắng trong,

tinh khiết như pha lê:


Áo trắng - Em giờ xa xôi rứa...?!

Để ai về, ngồi đếm giọt mưa rơi

Hỏi còn không

Ai thắp ngọn lửa bên trời!

Mong sưởi ấm

Những chiều cô quạnh.


(Áo trắng bên trời)


“Em giờ xa xôi rứa...?!” là một câu hỏi không lời đáp vọng từ trái tim của

người thơ về một mối tình đẹp của thời hoa mộng không vẹn nguyên, không đơm

nở một hạnh phúc tròn đầy theo năm tháng. Em hôm nay không như hôm qua, em


giờ xa xôi, em giờ có góc trời riêng, hạnh phúc với mái ấm nhỏ. Câu thơ bật ra

nghe thảng thốt một nỗi niềm cô quạnh, buồn da thiết của người thơ. Cái thời yêu

ấy đã đi vào dĩ vãng nhưng thi sĩ vẫn cứ ngỡ như vừa mới hôm qua, vừa mới bị

mất thôi. Tình yêu để lại cho người thơ một kỉ niệm buồn - một nỗi buồn nặng nợ

đa mang:


Ai ngu ngơ

Ảnh hình trong ký ức

Vu vơ buồn

Lạc lối chiều buông

Áo trắng phôi pha, áo thành dĩ vãng

Để suốt đời, nặng nợ đa mang...!


Cái tình buồn ấy không chỉ đọng lại ở thuở áo trắng mà còn cả cái thời bình

minh của cuộc đời.Em về cho ai chơi vơi, Nắng chiêm bao, Em về tinh khôi,... là

những bài thơ đều mang dự cảm vỡ tan. Thậm chí khi đã trưởng thành, có sự

nghiệp, mong muốn được chung tay xây đắp tổ ấm gia đình nhỏ với người mình

thương mến nhưng vẫn không thành, để lại trong anh một nỗi buồn chơi vơi, rã rời:


Em về bên ấy chiều nay

Một trời thương nhớ, heo may một trời

Câu ca mái nặng chơi vơi

Dòng sông như cũng rã rời, buồn tênh.


Em về bên ấy nắng hanh

Hay mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa

Em về buốt tím hoa mua

Đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh.


(Em về bên ấy)


Thơ tình Nguyễn Văn Trình nhuốm đầy sắc màu buồn da diết, nhưng đó lại

là một nỗi buồn đẹp, một nỗi buồn không lụy, một nỗi buồn trong trẻo của một tình


yêu luôn tận hiến cả trái tim mình cho người mình yêu. Vì thế mà nhật kí tình yêu

mang đầy nỗi ám ảnh của cô đơn, rạn vỡ, hoang mang nhưng người thơ vẫn không

hối tiếc.

Trong phạm vi hạn chế của một bài viết không thể nói hết những cái hay,

cái đẹp của thơ Nguyễn Văn Trình nên tôi viết đôi điều cảm nhận này theo cách

nghĩ, cách cảm của riêng mình để nhằm góp phần phác họa một gương mặt thơ khá

tiêu biểu ở một vùng đất Quảng Trị đầy nắng gió, mưa dầm. Đôi cánh thơ Nguyễn

Văn Trình tự thân đã có sẵn hương thơm tỏa ngát vườn thơ như một sự vẫy gọi bạn

đọc cùng đồng hành, cùng sáng tạo. Với tài năng và lực bút của mình tôi cũng như

bạn đọc hi vọng nhà thơ - nhà giáo Nguyễn Văn Trình trên hành trình Miệt mài

chảy mãi tháng năm trôi sẽ làm nên một chứng chỉ thi ca.


Portland, Maine, United States of America

Ngày 28 tháng 02 năm 2019


BNH

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 13
Trong ngày: 419
Trong tuần: 1110
Lượt truy cập: 435879
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0855 890 003 
Email liên hệ: Nhà văn Cầm Sơn: soncam52@gmail.com 
- Nhà Lý luận Phê bình Vũ Nho:  vunho121@gmail.com 
 
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chi hội trưởng.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông
- Cố vấn: Nhà văn, nhà Lý luận Phê bình Văn học - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho.