Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi (*)
TS. Bùi Như Hải
NHÀ THƠ NGUYỄN VĂN TRÌNH
Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Văn Trình hiện là Hội viên Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Quảng Trị. Anh sinh ngày 04 tháng 01 năm 1960, tại làng Lạng Phước,
Đông Lễ, Đông Hà, Quảng Trị. Anh từng gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam
và tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, sau đó anh chuyển ngành về học Đại
học khoa Ngữ văn, tại trường Đại học Sư phạm Huế. Sau bốn năm miệt mài học
tập, nghiên cứu và rèn luyện anh đã tốt nghiệp và về nhận công tác giảng dạy tại
trường THPT Bồ Bản, Triệu phong, Quảng Trị. Do nhu cầu của ngành giáo dục
đào tạo Quảng Trị, anh lần lượt được thuyên chuyển công tác giảng dạy đến các
trường THPT Đông Hà, THPT Lê lợi, THPT Phan Châu Trinh và THPT Chế Lan
viên. Cuối năm 2017 Nguyễn Văn Trình được nghỉ hưu theo chế độ. Duyên thơ
đến với anh rất sớm, ngay những năm tháng còn là học sinh ngồi trên ghế nhà
trường, anh đã viết thơ. Những bài thơ anh viết rất hồn nhiên, tươi vui, được lưu
giữ ở những tờ báo tường, những cuốn Lưu bút của thời còn cắp sách đến trường.
Những năm tháng tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, anh tiếp tục sáng tác
thơ, lần này anh gửi cho các báo và tạp chí xem có được đăng thơ mình không và
vui thay những bài thơ anh gửi đều được đăng, như các bài : Em về bên ấy, Em về
cho ai chơi vơi, Chiều An lạc,… là những bài thơ được đăng đầu tay và được báo,
tạp chí gửi về tại đơn vị, được các đồng chí, đồng đội đón đọc, khen ngợi và
khuyến kích, động viên anh tiếp tục viết thơ để được phổ biến rộng rãi, lan tỏa hơn
nữa. Rời quân ngủ, vào môi trường sinh viên anh càng có cơ hội để sáng tác thơ
hơn. Những bài thơ anh viết ra đều được in trong các tuyển tập thơ văn: Gương
mặt thời gian của trường Đại học Sư phạm Huế và một số báo, tạp chí Trung ương
và địa phương. Thơ Nguyễn Văn Trình lúc này không chỉ có lực lượng đọc giả là
thầy cô và bạn bè mà còn bạn đọc gần xa trong cả nước biết đến và yêu mến, đón
nhận một cách nồng nhiệt. Với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ, đầy tâm
huyết nên đã hun đúc Nguyễn Văn Trình hạ sinh đứa con đứa con tinh thần
đời của mình sau bao nhiêu năm ấp ủ, đó là tập thơ Mây trắng bên trời, do Nhà
xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Tập thơ vừa mới trình làng thì bạn đọc đã
đón nhận, các cây bút phê bình, lý luận quan tâm rốt ráo, đánh giá khá cao, góp
phần nâng thêm đôi cánh để Nguyễn Văn Trình tự tin bước vào làng thơ Việt Nam
đương đại.Nguyễn Minh Hoàng ThS Ngữ văn, trong bài viết Khung trời mây trắng
đã nhận định rất đúng về văn phong của Nguyễn Văn Trình, khi cho rằng: “Tập thơ
Mây trắng bên trời gói trọn những cảm xúc của thi sĩ về đời, người, nghề và những
niềm sâu kí ức. Đọc những vần thơ của anh ẩn chứa những năm tháng cuộc đời, tôi
bắt gặp cái sâu sắc trong cách nhìn, cái tinh tế trong cách cảm, cái đa dạng trong
cách thể hiện những tâm tư. Không cầu kì, không làm duyên, từng câu từng chữ
bình dị mà sang trọng, gần gũi như chính cuộc đời mà chứa đựng những triết lí sâu
xa. Bởi Nguyễn Văn Trình đến với thơ bằng tấm lòng của nhà giáo, bằng tâm hồn
đa cảm của một thi nhân, mang trách nhiệm thiên lương của một người dâng hiến.
Dâng hiến cho đời cái đẹp của tiêu chí nghệ thuật thơ ca: Chân-Thiện -Mỹ. Thơ
Nguyễn Văn Trình là sự dấn thân của một người luôn nặng nợ đa mang, với thơ
với đời”. Còn nhà thơ, nhạc sỹ Lê Đàn trong bài Những vầng mây không trôi đã có
những nhận định sắc nét, lẩy được cái hồn cốt của thơ Nguyễn Văn Trình qua tập
thơ, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng bên trời của thầy giáo - thi sĩ Nguyễn Văn
Trình là những vầng mây không trôi. Bởi thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh, để lại
trong tôi ấn tượng khó phai sau mỗi lần đọc. Và tôi tin những nõn mây trắng làm
dịu mát lòng người kia sẽ còn mãi với trời xanh, mây trắng”.
Quê hương và đất nước là một đề tài không bao giờ vơi cạn trong trong dòng
chảy văn học Việt Nam. Ở địa hạt thơ - dòng riêng trong nguồn chung thì đề tài
này cũng là một mạch nguồn cảm hứng chủ đạo dạt dào xuyên suốt nên mỗi nhà
thơ trong sự nghiệp sáng tác của mình cũng đều viết về đề tài này. Nhưng mỗi nhà
thơ lại có cách tiếp cận, tìm tòi và khám phá riêng, từ đó để lại dấu ấn đậm nhạt
trong lòng bạn đọc cũng khác nhau. Nguyễn Văn Trình là một nhà thơ viết nhiều
và khá hay về đề tài quê hương đất nước. Đông Hà, Quảng Trị - nơi sinh ra, lớn lên
và trưởng thành, gắn bó hơn sáu mươi năm nay đã được nhà thơ Nguyễn Văn
Trình cảm tác viết lên những bài thơ chất chứa đầy tâm trạng tươi vui, tự hào, như
Hiếu Giang xanh, Phố thương, Đông Hà ngày mới, Thành phố ngã ba sông, Huyền
sử một dòng sông, Chiều An Lạc,… Dẫn dụ như đọc giả đọc bài thơ Đông Hà ngày
mới sẽ thấy được một sự mến yêu, tự hào của nhà thơ Nguyễn Văn Trình đối với
quê hương của mình. Bài thơ như chính khúc ruột, chính dòng máu chảy của người
thơ, mang hồn cốt của quê hương xứ sở và một tấm lòng chân thành, đôn hậu của
một người con quê hương miền Trung dấu yêu:
Tôi yêu Đông Hà, tự thuở nào thơ dại
Thành phố muôn đời, ngự trị trong tim
Từ buổi cấp hai, cấp ba thời còn đi học
Kỷ niệm nào, lưu dấu tuổi học đường
Hiếu Giang xanh yêu thương biết mấy
Tắm mát tuổi học trò sông Cái sông Con
Tuổi thơ qua đi dòng sông ở lại
Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi
(Đông Hà ngày mới)
Bài thơ Phố thương cũng đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó
quên. Vẫn theo cái quy luật tuần hoàn của đất trời vần vũ mà sao cứ làm ta vấn
vương bởi những gam màu khác lạ trong bốn mùa của một một thành phố trẻ Đông
Hà. Bức tranh bốn mùa trong thơ ca truyền thống thường thì mùa Thu là mùa của
lá vàng bay, mùa Hạ là mùa của những tiếng ve ngân vang, mùa Đông là mùa của
những hàng cây trơ cành, trụi lá và mùa Xuân là mùa vạn vật thay áo mới, cây cối
đâm chồi, nảy lộc,…Nhưng bốn mùa trong thi phẩm này lại mang dáng nét riêng
của một mảnh đất miền trung. Sắc màu mùa Thu Đông Hà không bâng khuâng,
đượm buồn mà kiêu sa, biêng biếc, thao thiết trong những buổi chiều mưa, lạc
bước câu thề:
Một mùa thu nữa kiêu sa
Đông Hà tím chiều mưa nguồn biêng biếc
Giọt sáng cuối ngày thao thiết
Chợt nhớ chợt thương lạc bước câu thề.
Vạn vật vần vũ, Thu qua Đông đến. Đông Hà vào Đông mưa bụi bay bay,
dòng sông Hiếu trong xanh chất chứa bao kỷ niệm nồng say đã làm xua tan cái
lạnh của mưa phùn, gió bấc, đìu hiu và quạnh buồn:
Đông Hà vào buổi cuối đông
Có dòng sông Hiếu, xanh trong tháng ngày
Có trời mưa bụi bay bay
Từ trong kỷ niệm nồng say bao điều.
Và một mùa Xuân đủ muôn màu sắc thắm, rộn rã, rực rỡ và tràn đầy sức
sống tươi trẻ, tinh khôi của một thành phố Đông Hà trăm nhớ nghìn thương. Không
gian xuân bừng lên trong sắc màu cờ hoa, rộn ràng của người mua kẻ bán… Cảnh
mùa Xuân đầy quyến rũ, đắm say, với bao cảm xúc thiết tha, đằm thắm. Hình ảnh
đưa người viễn phố du xuân đã vút lên một niềm tin ngời sáng, một niềm tình yêu
gắn kết giữa con người và thiên nhiên:
Đông Hà vào xuân rực rỡ
Cánh mai vàng duyên nợ thi nhân
Hạt sương đọng trắng lá cành
Hoa sen trắng tỏa hương thơm ngào ngạt
Đưa người vào viễn phố du xuân.
(Phố thương)
Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đông Hà
cùng chung tay náo nức dựng xây lại thành phố to đẹp và đàng hoàng hơn, phố xá
được mở rộng, nhà cao tầng san sát mọc lên nhanh chóng, những khu công nghiệp,
nhà máy, công ty, xí nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài đã đầu tư đem lại
nguồn lao động, cung cấp việc làm cho rất nhiều người dân nên đời sống nhân dân
ngày càng ấm no, khởi sắc hơn:
Đông Hà - thành phố ngã ba sông
Em biết không?
Thành phố mình đáng yêu là vậy
Chỉ bảy năm thôi mà biết bao thay đổi:
Đại lộ Hùng Vương vươn dài từng con phố
Những tòa nhà nối nhau san sát
Tầng thấp tầng cao tạo dáng phố phường
Có ngôi chùa cổ kín thân thương
Tiếng chuông ngân mỗi sớm mỗi chiều
Đông Hà phố, gợi niềm yêu quê da diết
Phương trời nào cũng nhớ một ngã ba sông
(Thành phố ngã ba sông)
Hình ảnh thành phố Đông Hà luôn gắn với hình ảnh con sông Hiếu rất đỗi tự
hào. Huyền sử dòng sông Hiếu mãi ngân vang những chiến công đánh đuổi giặc
thù, tiếp nối mạch nguồn của khí linh nguồn cội anh hùng, đảm đang, bất khuất để
cùng chung lưng đấu cật dựng xây làm nên vóc dáng sinh động của một thành phố
trẻ Đông Hà sầm uất trên trục đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và trên
tuyến đường xuyên Á, hành lang kinh tế Đông- Tây:
Cuộc chiến qua đi
Sông lại hát tình ca
Ôi dòng sông, chở nặng phù sa
Mà làm nên những cánh đồng, bờ bãi
Tắm mát bao cuộc đời, dầu dãi nắng mưa
Hiếu Giang xanh, xanh tựa màu trời
Cửa Việt trung trinh, nghĩa tình vời vợi
Hồn thiêng đất nước, âm ba muôn đời…
(Huyền sử một dòng sông)
Thiết nghĩ có rất nhiều nhà thơ viết về thành phố Đông Hà nhưng hẳn nhiên
vẫn chưa đủ, chưa xứng tầm vóc lịch sử của một thành phố trẻ nên vì thế cần phải
có thêm những nhà văn thể hiện tình yêu của mình qua những tác phẩm truyện
ngắn, tiểu thuyết, tùy bút và phóng sự mới làm đầy lên hình ảnh của Đông Hà ở đôi
bờ sông Hiếu đang vươn mình lớn dậy từng ngày trong thời kỳ đổi mới một cách
đa dạng và phong phú hơn.
Quê hương thiêng liêng - nơi lưu giữ những mảnh kí ức tươi đẹp. Nơi đong
đầy những tấm lòng, tình yêu thương chân thật vì thế nhà thơ Nguyễn Văn Trình
đã bồi hồi xúc động, tự hào mỗi khi đến những địa danh của quê hương mình.Cửa
Tùng vùng đất một thời chiến tranh đầy đạn bom nhưng đã bừng sáng, mang dáng
dấp của một thành phố biển trong tương lai. Những ngôi nhà kiên cố, cao tầng mọc
lên san sát, những nhà hàng, quán sá khang trang, lộng lẫy, những cồn cát và biển
xanh ngắt,… làm say đắm hồn người. Vua Duy Tân đã coi đây là một vịnh nhỏ có
màu ngọc lục bảo tuyệt đẹp:
Khi anh về với biển Cửa Tùng
Biển mặn khiến lòng anh xao xuyến
Gió hát xôn xao lồng lộng bến bờ
Bãi Nữ Hoàng thiết tha bao nỗi nhớ
Biết nói gì trước biển chiều nay
Trước xanh xa, thanh khiết bao ngày
Trước vẻ đẹp nồng say của biển
Trước giản dị hồn nhiên cuộc sống con người
(Về với biển Cửa Tùng)
Đúng như dự cảm của nhà thơ Ngô Kha: “Rồi sẽ thấy và nhất định thấy. Một
đô thị vàng trên đồi Lao Bảo. Một thị trấn yêu kiều qua ngả Làng Vây”. Tình yêu
quê hương chính là sức mạnh vô bờ để dựng nên một Khe Sanh, Hướng Hóa giàu
đẹp, văn minh, rất đáng được tự hào. Viết về mảnh đất dấu yêu ở phía Tây của quê
hương mình, Nguyễn Văn Trình có những bài thơ khá hay như Khe Sanh ngày
mới, Khe Sanh đêm hội quán,...Đến với những bài thơ này đọc giả sẽ tưởng chừng
như mình đã từng sống và gắn bó với mảnh đất này nên đủ để yêu thương, đủ để
đất hóa tâm hồn của mình để gọi là quê hương:
Anh đến Khe Sanh một buổi chiều
Nghe rừng vẫy gọi thác đăm chiêu
Đường lên uốn lượn theo chiều gió
Dốc xuống quanh quanh, ấm câu hò
Khe Sanh mới đó, lung linh quá
Nắng vàng gió mát dạ chơi vơi
Núi cao từng dải trời xanh thẳm
Thị trấn nằm sương núi mây vờn
Chính tình yêu quê hương của người thơ là nguồn nước mát lành chảy
mãi đổ ra đại dương để hội tụ thành tình yêu đất nước. Là một nhà giáo nên
luôn bị câu thúc bởi thời gian công việc giảng dạy và gia đình nhưng Nguyễn Văn
Trình vẫn luôn tranh thủ thời gian của những ngày tháng hè để rong ruổi đến
những vùng quê của đất nước. Trong một lần đến Đại Lải nhà thơ Nguyễn Văn
Trình tràn đầy cảm hứng trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng đã viết
ngay một chùm thơ như Chiều Đại Lải, Với Đại Lải, Đại Lải vào xuân,... Mỗi bài
thơ là một cung bậc của xúc cảm, của tâm trạng chứa đầy niềm hoan ca, tràn đầy
vui sướng trước cảnh và người nơi đây, trước những đổi thay tươi sáng. Bài thơ
Với Đại Lải như chính tâm hồn rạng ngời, vui tươi của người thơ nên diễn ngôn
trong lập tứ và ý thơ rất tự nhiên, trong trẻo. Cảnh vật và con người như người bạn
tri ân đã mời gọi nhà thơ từ lâu. Giữa không gian thơ mộng đầy màu sắc, âm thanh
của nắng gió, cỏ hoa, hồ nước trong xanh và sắc lụa Hà Đông rạng ngời em gái
chan chứa nghĩa tình đã làm say hồn người thơ:
Nắng nghiêng chiều soi gương hồ Đại Lải
Gió mơn man hôn mãi mộng đồi thông
Em rạng ngời trong sắc lụa Hà Đông
Ôi Đại Lải ru lòng tôi đến vậy!?
Lời tự tình hây hây đôi má đỏ
Đại Lải chiều nắng gió hanh hao
Nắng rất mỏng xuyên qua từng kẻ lá
Rừng thông già dạt dào bao giấc mộng
Xanh tháng năm lặng sóng mặt hồ
Êm ả thế như tình em đằm thắm
(Với Đại Lải)
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình ước mơ ít nhất một lần trong đời được đến thủ
đô Hà Nội và khát khao ấy cũng đã trở thành hiện thực. Thể hiện tình yêu với thủ
đô Hà Nội dấu yêu- trái tim hồng của cả nước - trong chuyến đi này, Nguyễn Văn
Trình đã sáng tác bài thơ Trong tôi Hà Nội. Đến với bài thơ bạn đọc cảm thấy
mình như được hòa vào không gian thơ mộng, dịu dàng của mùa thu Hà Nội. Một
mùa thu yên ả, nắng thu vàng buông chiều, những con phố nhỏ nồng nàn mùi
hương hoa sữa, những hồ nước thoang thoảng thơm ngát mùi hoa sen, những hàng
liễu rũ, bất chợt những cơn mưa rào ngúng nguẩy,... đã đọng lại bao niềm nhung
nhớ:
Hà Nội trong tôi, nắng vàng dịu ngọt
Mây lững lờ trôi nhè nhẹ giữa trời thu
Lộc vừng rơi đầy lối
Hoa sữa thơm nồng nàn
Màu lá bàng đỏ thắm
Đọng bao niềm nhớ nhung
(Trong tôi Hà Nội)
Những con phố, những địa danh lịch sử của Hà Nội cũng được Nguyễn Văn Trình
ghi dấu sâu sắc trong thơ, đọc lên nghe như mời gọi xao xuyến lòng người đi kẻ ở:
Hà Nội trong tôi, giấu bao niềm ký ức
Dạo chơi ba mươi sáu phố phường
Sao nghe vương vấn, dấu thương trong lòng
Chùa Trấn Quốc, đường Đê La Thành
Chợ đêm, phố cổ, Ba Đình, Hồ Tây
Lũy Hoa lửa khói, cốm đây Làng Vòng ….
Hà Nội kỷ niệm vơi đầy
Để người đi, luyến lưu bao nỗi nhớ
Ngày trở về, ghi tạc những vần thơ !!!
(Trong tôi Hà Nội)
Và đến với xứ Lạng người thơ không chỉ ngỡ ngàng, rạo rực trước vẻ đẹp
của núi đồi quanh co, trùng điệp, nắng chiều khói sương, mà còn say men tình, hân
hoan hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người thương, để rồi vấn vương, ra về chân
bước không rời, bời bời nhớ nhung:
Tôi lên xứ Lạng tìm em
Tìm trong câu hát, mênh mang nắng chiều
Đường đèo nên dạ liêu xiêu
Chập chùng non thẳm, mắt nhiều khói sương
Ra về lòng lại vấn vương
Ngàn thu chân bước, thương thương không rời
Ra về lại nhớ bời bời
Trăm năm vẫn đợi,một người trăm năm.
(Tìm về xứ Lạng)
Còn đến với Tam Đảo thị trấn mù sương, Nguyễn Văn Trình đã có một chùm thơ
khá hay về điểm tham quan du lịch hấp dẫn của đất nước, các bài thơ:Tam Đảo
mây, chiều lên Tam Đảo …
Tam Đảo bồng bềnh, Tam Đảo mây
Không bãi không bờ, mây tựa biển
Một màu sương trắng, mây- núi - mây
Dốc đèo uốn lượn, kià ba đỉnh :
Thiên Thị, Phù Nghĩa, tả hữu vây
Đỉnh trung : Bàn Thạch đầy sương sớm
Thác Bạc, Chùa Vàng khách khách say...
Tam Đảo về đêm, nhấp nhô phố
Chập chùng cao thấp, Lộ đèn vàng
Phố lượn thanh thang, quanh sườn núi
Sương giăng bàng bạc, bụi trúc ngà
Từng đôi giai nhân qua dạo phố
Thướt tha bách bộ, dáng thành đô.
Tam Đảo kia rồi... ! Tam Đảo mây,
Bỗng đâu hương rừng, ngây ngất lạ
Thông xanh lá biếc, dựng trời mây
Bóng ai thấp thoáng, ven đèo ấy ...?!
Mây treo, sương quyện mắt vơi đầy
Hây hây má đỏ, trong ngày mới
Bâng khuâng Tam Đảo, đợi Em về ... !
( Tam Đảo mây )
Tam Đảo trong thơ Nguyễn Văn Trình thực sự là một thiên đường du lịch nghỉ
dưỡng. Trên đỉnh núi mù sương bỗng nhiên có một thị trấn nhỏ, mây mù bao phủ,
hoa nở quanh năm và khắp nơi, cảm giác như ta lạc bước thiên đường vậy. Đến với
Tam Đảo ta như chạm đến một thứ không biết là sương hay là mây, nó mờ ảo bay
bay thật huyền diệu:
Chiều lên Tam Đảo, mưa tầm tả
Đường trơn, đá trượt mấy vòng xe
Sương mờ ấp ủ, vờn khe núi
Mưa trắng đèo mây, núi trắng mây
Chiều mưa Tam Đảo, đầy hư ảo
Thị trấn giữa lòng, núi bao quanh
Khí hậu hanh hao, rõ bốn mùa:
Sáng có se se ngọn gió Xuân
Trưa lên nồng ấm, khí Xuân - hè
Chiều muộn heo may, thu lãng đãng
Đêm về lành lạnh, dáng mùa Đông.
Chiều lên Tam Đảo, mưa tầm tả
Ba ngọn núi nhòa, mưa trong mưa
Sừng sững uy nghi, thừa kiêu hãnh
Ẩn hiện làn sương, xanh xóm nhỏ
Ven đồi thảm cỏ, ngọn su su
Tơ non nhọn sắc chĩa lên trời
Như triệu mũi chông, nghìn đời trước
Đánh Tống, đuổi Nguyên... giặc tơi bời
Linh thiêng, tổ quôc ta ơi... !
Xin được một đời ngưỡng vọng
Tam Đảo yêu thương- mây sóng đẹp oai hùng ... !
( Chiều lên Tam Đảo)
Dẫu biết rằng tình yêu quê hương, đất nước có diễn ngôn đến tận cùng nỗi
lòng thì vẫn không thể diễn tả hết được. Nhưng qua những bài thơ về quê hương,
đất nước của nhà thơ Nguyễn Văn Trình và một số nhà thơ khác bạn đọc sẽ cùng
cảm với người thơ về tình yêu của mình dành cho quê hương, đất nước.
Là một người lính viết về người lính nên hình ảnh người lính trong thơ
Nguyễn Văn Trình hiện lên rất đỗi chân thực. Người lính nơi biển đảo Hoàng Sa
và Trường Sa ít phải chịu cảnh vượt suối, trèo đèo vì “ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”, phải “mưa dầm cơn vắt”,…như người lính trong đất liền. Nhưng
người lính biển đảo vẫn có những gian khó, hiểm nguy và những thử thách nhất
định. Ở nơi đầu sóng ngọn gió một thời chiến tranh người lính hải đảo cùng chung
một ý chí, kiên cường bám đảo, bám biển để gìn giữ bờ cõi, ngư dân yên tâm tiến
ra biển cả đánh bắt hải sản:
Mấy trăm năm, kiên cường gìn giữ
Tiếng gươm khua, còn vọng đến bây giờ
Như lời thề giữ yên bờ cõi
Nơi đảo xa đêm ngày vẫy gọi
Thiêng liêng hai tiếng: Tổ quốc mình.
Biển đảo quê hương hình hài đất nước
Gần gũi yêu thương, ngõ xóm đường làng
Ta quyết giữ, hàng trăm hải lý
Thuộc chủ quyền biển đảo Việt Nam
Để ngư trường, mãi mãi của ta
Hoàng - Trường Sa biển đảo là nhà
Đã bao đời, ông cha gìn giữ.
Dẫu biết rằng sự gian khổ, thiếu thốn của người lính biển đảo không còn như
trước nữa. Đất nước đã hòa bình, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất
cũng như tinh thần ngày càng được cải thiện, nâng cao hơn rất nhiều.Tuy nhiên thì
người lính biển đảo vẫn có những thiệt thòi, mất mát nhất định khi phải sống xa gia
đình, vợ con, bạn bè, làng xóm và cả cuộc sống văn minh nơi đất liền,...Đặc biệt là
trong bối cảnh hiện nay khi mà biển Đông đang “dậy sóng” từng ngày, từng giờ,
biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, người lính biển đảo luôn phải đối mặt với kẻ
thù, với sự hi sinh mất mát thì ý chí, tư tưởng của người lính biển đảo càng mạnh
mẽ hơn, quyết một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Và sự thật đã
diễn ra trong những ngày hè nóng bỏng của tháng 05 năm 2014 Trung Quốc đã
ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép xâm phạm vùng biển chủ
quyền của nước ta. Hơn chín mươi triệu người dân trong cả nước dậy sóng căm
hờn, thể hiện lòng yêu nước, thương nòi thì người lính biển đảo chẳng hề nao lòng,
quyết tâm chặn đứng mộng xâm lăng không để một tấc biển, tấc trời rơi vào tay
giặc:
Bỗng một chiều, tháng năm thịnh nộ
Bọn người kia, hùng hổ xâm lăng
Chúng tham tàn, cướp biển đặt giàn khoan
Trấn áp ngư dân, tranh giành biển đảo
Biển đảo quê hương, dậy sóng căm hờn
Dẫu một tấc biển, tấc trời
Đều là lãnh thổ ông cha để lại
Ta quyết giữ, cho đời đời con cháu
Để mai này, còn biển ra khơi,….
Tháng năm này, biển Đông dậy sóng
Huế - Sài gòn - Hà nội,…. xuống đường
Yêu nước thương nòi, ngàn năm sống mãi
Căm cướp nước, thơ thành mũi chông ngọn giáo
Diệt tham tàn, chặn đứng mộng xâm lăng
Lòng yêu nước, chảy trong từng huyết quản
Con cháu rồng tiên,
Không khuất phục bao giờ…!?
Ta nhân nghĩa, chúng thì tàn bạo
Chẳng nao lòng, quyết tâm giữ đảo.
(Với biển đảo quê hương)
Trong không khí “nước sôi lửa bỏng” đó, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy"
một lần nữa đã trổi dậy một cách mạnh mẽ trong trái tim của giới văn nghệ sĩ yêu
nước. Cùng góp chung trên mặt trận văn hóa nghệ thuật nhà thơ Nguyễn Văn Trình
đã sáng tác bài thơ Với biển đảo quê hương. Bài thơ ra đời trong bối cảnh như vậy
đã tạo được một sự đồng cảm,làm lay động hàng triệu trái tim bạn đọc. Bài thơ có
một sự tác động to lớn đến công tác tuyên truyền và vận động toàn dân hướng về
biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu.
Không những là người lính biển đảo, người lính biên phòng cũng đã trở
thành một hình tượng đẹp trong thơ Nguyễn Văn Trình. Người lính biên phòng
trên các tuyến biên giới nước ta nói chung và Cửa Việt, Quảng Trị nói riêng đã
thầm lặng hi sinh tuổi thanh xuân của mình mà gánh vác trọng trách lớn lao của
Đảng và nhân dân giao phó, đó là bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới của Tổ
quốc. Người lính biên phòng vì vậy đã được các nhà thơ tôn vinh, mến yêu dựng
lên một hình ảnh đẹp qua những bài thơ trải dài theo năm tháng lịch sử. Trong số
những bài thơ viết về người lính biên phòng thì Người lính biên phòng Cửa Việt
của Nguyễn Văn Trình là một bài thơ khá hay. Bài thơ đã phác họa được hình ảnh
chân thực của những người lính biên phòng ở một số miền quê khác nhau đến đồn
biên phòng Cửa Việt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh
khá nhau, mỗi tính cách khác nhau nhưng lại có cùng chung một ý chí, một lí
tưởng, cùng chung tay vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, hi sinh tuổi xuân của
mình để bảo vệ biên cương. Có những lúc nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình và
người yêu da diết, trĩu nặng nhưng người lính biên phòng vẫn cố nén lại, tạm gác
tình riêng vì nghĩa lớn.Người lính biên phòng ngày đêm bám trụ biên cương, kiên
định tinh thần vượt qua mọi khó khan gian khổ, sẵn sàng xả thân trước mọi hiểm
nguy, giặc ngoại bang, tội phạm xuyên quốc gia,… để đất nước thanh bình, ổn định
và thịnh vượng.
Anh thao thức cùng ngư dân bám biển
Giữ vững chủ quyền, lãnh hải Việt Nam
Bước chân anh chưa hề mệt mỏi
Từ khơi xa, cho tới mỗi bờ gần
Lúc nào cũng có anh canh giữ
Với các anh đó là nhiệm vụ thiêng liêng
Cho hôm nay và cho cả ngày mai giữ biển
Những người lính Biên phòng Cửa Việt
Trăm quê riêng, về ở một đồn chung
Đoàn kết - yêu thương, trong một gia đình
Chung trách nhiệm: Bám bờ giữ biển
Da cháy nắng, bởi mặn mòi muối biển
Riêng nụ cười vẫn sáng mãi tin yêu
Anh vượt lên những khó khăn gian khổ
Có những khi nghiệt ngã của đời thường
Ngày như đêm,quyết hoàn thành trọng trách
Đồn là nhà, biển đảo là quê hương
(Người lính biên phòng Cửa Việt)
Là một thầy giáo, nằm trong ngành giáo dục nên Nguyễn Văn Trình đã dành
một góc rất riêng trong vườn thơ của mình những bông hoa tươi thắm nhất về nghề
giáo, trường lớp, tình đồng nghiệp và về tình thầy trò. Mảng thơ viết về đề tài này
là những bài thơ rất hay, được học sinh, đồng nghiệp yêu mến và được các nhạc sĩ
phổ nhạc như: Bài giảng giờ chia tay, Hoài niệm, Ngày tựu trường, Hãy nuôi
dưỡng ước mơ, Trường em trường TH Lê Lợi Đông Hà, Bài ca trường Phan Châu
Trinh, Bài ca trường Chế Lan Viên, nghề giáo của tôi ...
Lặng xuôi năm tháng trồng người
Bảng đen phấn trắng con đò nặng mang
Làm nghề giáo khó khăn nặng nhọc
Đời mãi vui, say đắm yêu nghề
Tháng năm dầu dãi Sơn khê
Con đò tri thức, thầy về sơm trưa
Làm nghề giáo đội mưa đội nắng
Trò qua sông thầy thấy yên lòng
Tâm trĩu nặng đầy vơi thương nhớ
Biết bao giờ trò trở lại bến xưa !?
Làm nghề giáo nặng lòng trưa sớm
Dạy cả tuần, cuối tuần chẳng nghỉ
Bên đèn khuya, vẫn miệt mài trang giáo án
Bận bịu quanh năm chẳng chút phiền lòng
Đời vẫn vui khi trải lòng cùng trò nhỏ
Làm nghề giáo khi đông về sương gió lạnh
Lòng vẫn ấm vì tình yêu trẻ nhỏ
Động lực giúp thầy vượt qua ngàn gian khó
Vững lái con đò đưa trẻ nhỏ qua sông
Làm nghề giáo có hạnh phúc nào bằng ?!
Nghề giáo đó với bảng đen phấn trắng
Gieo nghĩa nhân vào tâm hồn hoa nắng
Mang cho đời bao quả ngọt yêu thương
Mùa hiến chương, ơn đời ghi nhớ
Tình thầy trò nặng nghĩa cha con
Thầy lặng lẽ ươm trồng sự nghiệp
Nghiệp trồng người, cao quý biết bao nhiêu !?
( Nghề giáo của tôi )
Nguyễn Văn Trình có quãng đời rất đẹp của tuổi học sinh. Một thời đi học
và cắp sách đến trường cùng bạn bè, với thầy cô, trường lớp đã trở thành một kí
niệm đẹp không thể nhạt nhòa theo năm tháng. Khung trời mây trắng này cũng đã
bén duyên với anh thêm một lần nữa khi trở thành một thầy giáo gõ đầu trẻ. Ngôi
trường đã trở thành mái nhà thứ hai, gắn bó suốt cả một chặng đường dài trong
cuộc đời làm nghề giáo của anh. Mái trường nơi anh dạy học đã gắn bó, lưu giữ
biết bao tình cảm yêu thương với học trò, với đồng nghiệp. Tình yêu đẹp ấy đã
được hóa thân viết lên những vần thơ ngọt ngào về mái trường thân yêu của người
thơ với một giọng điệu ngợi ca, hãnh diện được dạy học ở mái trường mang tên
của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh:
Tự hào trường em,mang tên người chí sĩ
Chí sĩ Việt Nam vì nước quên mình
Phan Châu Trinh- Đông Hà trường em
Vì tương lai, vì ngày mai tươi sáng
Học hành chăm ngoan, quyết chí hăng say
Nắm chắc thành công bước vào ngày mới
Mái trường tầng cao, dạt dào yêu mến
Phan Châu Trinh- Đông Hà trường em
(Bài ca trường Phan Châu Trinh)
Mảng thơ viết về những ca khúc trường học, đáng chú ý Nguyễn Văn Trình
đã có những bài thơ phổ nhạc và trở thành những bản trường ca truyền thống của
các nhà trường, bài thơ : Trường em, trường TH Lê Lợi Đông Hà là một bài thơ
như thế :
Trường em,
Lớp lớp cây non mầm xanh vươn cao
Áo trắng tỏa về rực nắng xôn xao
Trường em,
Chắp cánh ước mơ , giữa khung trời rộng mở
Trên tầng cao lộng gió ước mơ
Cờ đỏ tung bay
Có ngọn cờ đào dựng nghĩa Lam Sơn
Tự hào trường em, Lê Lợi anh hùng .
Trường em, Lê Lợi Đông Hà
Chưa xa đã nhớ , ước mong ngày về
Tình quê gắn với tình trường
Yêu thương gắn với niềm tin dạt dào
Bao thầy cô, bao bạn bè yêu mến
Bao tháng năm, mãi mãi không quên
Quyết tâm học tập, rèn luyện đức tài
Sáng mãi trường em, Lê Lợi Đông Hà
Dâng bông hoa , truyền thống quê hương
Học hành tốt, tình nghĩa thầy cô
Chắp cánh cho em,
Bay cao bay xa, bay vào mơ ước ...
Trường em Lê Lợi Đông Hà
Trên tầng cao lộng gió ước mơ
Cờ đỏ tung bay
Có ngọn cờ đào dựng nghĩa Lam Sơn
Tự hào trường em, Lê Lợi anh hùng .
( Trường em, trường TH Lê Lợi Đông Hà)
Hãy nuôi dưỡng ước mơ là một bài thơ giàu tính nhân văn, thể hiện tâm
huyết của người thơ đối với nghề giáo. Từng chữ, từng câu trong bài thơ chính là
lời khuyên, sự răn dạy của anh đối với học trò của mình cũng như đối với thế hệ trẻ
hôm nay phải biết dưỡng nuôi những ước mơ, dự định tương lai. Với sự tâm huyết,
nỗ lực bước đi trên chính đôi chân của mình thì sẽ vượt qua được mọi khó khăn,
gian khổ và thành công, tương lai tươi sáng, tốt đẹp:
Cuộc sống, có muôn ngàn cái đích,
Vươn tới
Hãy chọn cho mình, một lối đi riêng
Em sẽ thấy, cuộc sống này đáng yêu biết mấy
Trời trên đầu vẫn xanh
Đất dưới chân,vẫn bình yên nồng ấm
( Hãy nuôi dưỡng ước mơ )
Hơn ba mươi năm dạy học, có biết bao thế hệ học trò thì có bấy nhiêu tâm
trạng, nỗi niềm. Mỗi thế hệ học trò, mỗi lớp học và mỗi học sinh đều được nhà thơ
- thầy giáo Nguyễn Văn Trình nâng niu, dạy bảo, xem như người em, người cháu
của mình nên khi các em chuẩn bị ra trường, chia tay là những lần chất chứa đầy
tâm trạng ngậm ngùi, rưng rức nước mắt:
Đó là bài giảng cuối cùng cho em
Mà sáng nay thầy giảng
và bắt đầu một cuộc chia tay…
Vội vàng cái buổi chia tay
Không phải lần đầu sao thầy rưng rức
Cả lớp nôn nao một thoáng ngậm ngùi…
Rồi tiếng cười thay nước mắt
(Bài giảng giờ chia tay)
Trong “dàn đại hợp xướng” thơ Nguyễn Văn Trình hiện diện những giai
điệu ngọt ngào, du dương và lãng mạn về tình yêu đôi lứa là chuyện thường tình.
Vì rằng trái tim của nhà thơ cũng đa cảm như bao người ở cõi nhân gian bé tí
này.Tình yêu trong thơ Nguyễn Văn Trình là tình yêu thuộc về thì quá khứ - cái thì
chất chứa bao hoài niệm của một thời xa vắng. Tình yêu trong thơ anh không có
kết thúc viên mãn, tròn đầy nên hương vị tình yêu chất chứa nỗi buồn, nuối tiếc.
Người thơ vương vấn nỗi buồn tình yêu của cái thuở ban đầu ban mai trắng trong,
tinh khiết như pha lê:
Áo trắng - Em giờ xa xôi rứa...?!
Để ai về, ngồi đếm giọt mưa rơi
Hỏi còn không
Ai thắp ngọn lửa bên trời!
Mong sưởi ấm
Những chiều cô quạnh.
(Áo trắng bên trời)
“Em giờ xa xôi rứa...?!” là một câu hỏi không lời đáp vọng từ trái tim của
người thơ về một mối tình đẹp của thời hoa mộng không vẹn nguyên, không đơm
nở một hạnh phúc tròn đầy theo năm tháng. Em hôm nay không như hôm qua, em
giờ xa xôi, em giờ có góc trời riêng, hạnh phúc với mái ấm nhỏ. Câu thơ bật ra
nghe thảng thốt một nỗi niềm cô quạnh, buồn da thiết của người thơ. Cái thời yêu
ấy đã đi vào dĩ vãng nhưng thi sĩ vẫn cứ ngỡ như vừa mới hôm qua, vừa mới bị
mất thôi. Tình yêu để lại cho người thơ một kỉ niệm buồn - một nỗi buồn nặng nợ
đa mang:
Ai ngu ngơ
Ảnh hình trong ký ức
Vu vơ buồn
Lạc lối chiều buông
Áo trắng phôi pha, áo thành dĩ vãng
Để suốt đời, nặng nợ đa mang...!
Cái tình buồn ấy không chỉ đọng lại ở thuở áo trắng mà còn cả cái thời bình
minh của cuộc đời.Em về cho ai chơi vơi, Nắng chiêm bao, Em về tinh khôi,... là
những bài thơ đều mang dự cảm vỡ tan. Thậm chí khi đã trưởng thành, có sự
nghiệp, mong muốn được chung tay xây đắp tổ ấm gia đình nhỏ với người mình
thương mến nhưng vẫn không thành, để lại trong anh một nỗi buồn chơi vơi, rã rời:
Em về bên ấy chiều nay
Một trời thương nhớ, heo may một trời
Câu ca mái nặng chơi vơi
Dòng sông như cũng rã rời, buồn tênh.
Em về bên ấy nắng hanh
Hay mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa
Em về buốt tím hoa mua
Đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh.
(Em về bên ấy)
Thơ tình Nguyễn Văn Trình nhuốm đầy sắc màu buồn da diết, nhưng đó lại
là một nỗi buồn đẹp, một nỗi buồn không lụy, một nỗi buồn trong trẻo của một tình
yêu luôn tận hiến cả trái tim mình cho người mình yêu. Vì thế mà nhật kí tình yêu
mang đầy nỗi ám ảnh của cô đơn, rạn vỡ, hoang mang nhưng người thơ vẫn không
hối tiếc.
Trong phạm vi hạn chế của một bài viết không thể nói hết những cái hay,
cái đẹp của thơ Nguyễn Văn Trình nên tôi viết đôi điều cảm nhận này theo cách
nghĩ, cách cảm của riêng mình để nhằm góp phần phác họa một gương mặt thơ khá
tiêu biểu ở một vùng đất Quảng Trị đầy nắng gió, mưa dầm. Đôi cánh thơ Nguyễn
Văn Trình tự thân đã có sẵn hương thơm tỏa ngát vườn thơ như một sự vẫy gọi bạn
đọc cùng đồng hành, cùng sáng tạo. Với tài năng và lực bút của mình tôi cũng như
bạn đọc hi vọng nhà thơ - nhà giáo Nguyễn Văn Trình trên hành trình Miệt mài
chảy mãi tháng năm trôi sẽ làm nên một chứng chỉ thi ca.
Portland, Maine, United States of America
Ngày 28 tháng 02 năm 2019
BNH
Người gửi / điện thoại