Nguyễn Trọng Tân
TRANG GIA PHẢ VIẾT BẰNG VÔI
I-
Ông nội tôi sống hơn chín mươi tuổi mà trí nhớ vẫn tươi tốt. Người ông đẫy đà, da đỏ au, tiếng nói rất vang. Đặc biệt hai hàm răng chưa hề khuyết chiếc nào. Con cháu đều mừng, nghĩ rằng ông sẽ thọ trăm tuổi. Vậy mà sau tết Canh Ngọ vừa rồi ông cụ “đi”. Ông đi nhẹ tênh, cứ như có chuẩn bị trước, đã hò hẹn với tử thần.
Cả nhà, hơn bốn chục con, cháu, chắt ngơ ngác, lúng túng trước cái đại tang chưa được chuẩn bị cả trong ý thức. Cha tôi là trưởng nam, lại vừa bay ra nước ngoài dưỡng bệnh để chuẩn bị về hưu. Cha tôi đi được năm hôm thì ông tôi mất. Ông tôi bị bệnh run chân tay từ lâu. Mỗi khi đi lại, phải có người đỡ. Trước hôm mất, ông sai đem cái ghế mây ra góc vườn và bảo tôi ngồi với ông. Ông bảo: “Có một điều gì đó lạ lắm đang xảy ra. Cứ nhắm mắt, lại gặp các “ngài”. Các ngài bảo đến cõi rồi. Xe đón sắp tới rồi. Đêm qua thì toàn ma quỷ kêu khóc, đòi nợ. Có một con ma, hai tay lòm máu, cứ ôm lấy hạ bộ nhìn ông trân trân. Ông thấy chỗ ấy trông hoác, máu chảy dầm dề ướt cả hai chân”.
Tôi lựa lời an ủi:
– Ông mệt nên tưởng thế thôi. ông sống trăm tuổi để nhận quà của Chủ tịch nước chứ.
Ông thở dài:
– Không kịp, không xứng. Chết đáng rồi. Chỉ tiếc bố cháu vắng nhà. Và trong đời ông không làm gì thất đức, vậy mà có một điều khiến ông không lúc nào thanh thản.
Trưa hôm sau, đang chập chờn trong cơn mơ, ông mở bừng mắt, vẫy tôi đến gần. Lại bảo gọi tất cả con cháu và tìm cô Lụa đến. Cô Lụa em họ tôi. Cô bị tật từ nhỏ, thọt chân, mắt phải chột và da sần sùi như mụn cóc. Đã hơn ba mươi tuổi cô vẫn ở với ông tôi. ông nhìn mọi người, chỉ tay vào cuốn gia phả bìa đen xỉn vì quét nhựa nhội, rồi chỉ vào tôi. Cuối cùng ông dừng mắt rất lâu nơi cô Lụa đang quỳ mọp, nức nở khóc. Hai mắt ông ứa nước. Ông trút một hơi thở dài, miệng thốt kêu: “Thằng Xuấn… ôi chà!…
Thế là ông tôi đi
II
Chợ Phủ Lâm năm đói, ràn rạt người lang thang xin ăn. Một người đàn bà còn trẻ, nhưng tiều tuỵ, rũ héo. Trên người chị manh áo cộc cỡn, mảnh yếm cộc cỡn, cái váy cũng cộc cỡn loang lổ mụn vá. Hai tay áo, vạt yếm, đến cả gấu váy, nơi hai đầu gối đội lên cành cạch đen xỉn, mũi nhãi cùng mồ hôi. Chị ngồi tựa vào cọc lều một quán bỏ không, cổ chân sứt sát cuốn một đầu sợi dây, đầu kia buộc quanh bụng đứa con trai lên 5 tuổi. Thằng bé vùng vẫy, mếu máo đòi ăn. Trước mặt hai mẹ con, cái mê nón xơ tớp, nông choẹt đặt ngửa, lăn lóc trong ấy một củ khoai sống bằng cái chuôi dao và mẩu bánh đúc cắn dở. Chợ trưa, vãn người mua bán. Đám người ăn xin ngơ ngác, thất thần nhìn nhau. Vài người chúi quanh đống vỏ ốc, vỏ hến, lẫn với lá sả đã nguội ngắt, đã tanh bành vì moi đi, móc lại nhiều lần. Một phụ nữ trung tuổi, cánh tay lồng qua quai nón tất tả bước theo người đàn ông gánh một gánh hàng tạp hóa ra cổng chợ. Ngang qua quán, bà dừng bước, đôi mắt phúc hậu nhìn hai mẹ con người đàn bà.
– Con lạy bà. . . bà làm phúc . . .
Bà đặt vào mê nón hai hào, rồi hỏi:
– Cô không phải người vùng này?
– Lạy bà, quê con tận Hải Dương. Con theo người làng lên đây kiếm ăn.
Chị ta nức lên kể rằng chồng mới chết. Hai mẹ con bỏ làng, gặp ai thuê mướn việc gì cũng làm. Vừa rồi xay lúa giã gạo cho một nhà làm hàng “xáo” cạnh chợ Phủ. Đêm hôm qua thằng con trai nhà ấy lần vào cái chái rạ mẹ con chị nằm. Nó bảo vợ nó mới ở cữ. Cho nó… nó sẽ cho tiền. Chị không chịu bị nó đánh cho, lại còn bị vu vạ là rủ rê nó. Chị vợ trong buồng xồ ra, biết tính thằng chồng, chị ta túm ngực áo nó ấn dúi dụi vào đống rạ, miệng rủa mãi là đồ chó dái. Nhưng biết cũng không ở được nhà ấy nữa, đành đem con ra đây, có ai nuôi thì cho, rồi lần hồi kiếm miếng ăn. Bà chủ hàng xén ấy tên Thảo, vợ ông lang Hạnh dưới làng Phung. Nghe kể bà thương lắm, bà bảo sẽ nuôi hộ đứa trẻ, lại cho ít tiền làm vốn. Bà dặn lúc nào kiếm được việc làm hay nhớ con, muốn về thăm thì cứ hỏi tới làng Phung, tổng Cao Phong. Chị ta cám ơn lắm, vái bà hai vái rồi cắp cái mê nón bước cùn cụt như chạy trốn. Mấy lần chị ta còn ngoảnh lại nhưng thằng bé vẫn vục mặt vào tấm bánh chưng bà Thảo cho. Đám lá bánh che kín mặt nó, che khuất cả hình bóng người mẹ đang thổn thức mờ dần trên con đường lầm bụi. Bà Thảo đưa thằng bé về nhà. ông bà lang Hạnh thuộc hàng khá giả trong làng, lại hay làm việc nhân đức. Ông bốc thuốc bệnh, bà bán hàng xén, đã có hai con đến tuổi đi học. Ông bà nghĩ nuôi làm phúc thằng bé một vài năm, thế nào mẹ nó cũng tìm về đón đi. ông đặt tên nó là Xuấn, Trần Văn Xuấn.
Ở với ông bà lang Hạnh, Xuấn được coi như con đẻ, được học hành đến nơi đến chốn. Mười lăm năm trôi đi, Xuấn đã hai mươi tuổi, ông bà cưới vợ cho. Vợ Xuấn là cô Ngoan con gái ông đồ Phán, bạn bút nghiên với ông Hạnh ngày trước. Ngoan có nhan sắc lắm, lại là con gái một, ít phải làm lụng, chân tay rắng trẻo. Hai con mắt thăm thẳm lúc nào cũng ướt rượt, lóng lánh. Năm ấy, giặc Pháp đang bị vây Ở Điện Biên Phủ, phong trào cách mạng dâng lên hừng hực khắp nơi. Cả vùng trung du Phú Thọ trở thành vùng tự do. Anh Tý, cô Mỹ, con cụ Hạnh hăng hái theo cách mạng thoát ly gia đình, ở nhà chỉ còn có Xuấn. Nhưng muốn cho Xuấn tự lập, ông bà cắt đất dựng cho nếp nhà riêng ngay trong vườn nhà. Lấy chồng được hai năm, chị Ngoan sinh liền hai con, nhưng chúng khác nhau như đêm với ngày. Đứa con gái mang dị tật từ trong bào thai. Một chân dị dạng, teo tóp, mắt phải bị đục nhãn, chỉ được cái làn da mịn màng, có ánh sáng như lụa. Vợ chồng Xuấn buồn lắm, nhưng bà Thảo lại quý, bà bảo: “Dù sao nó cũng là máu mủ mình. Đừng hắt hủi mà thất đức”. Bà đặt tên nó là Lụa. Cậu em trai tên Dương kém chị một tuổi, kháu khỉnh, phương phi như con cầu tự. Trời bù sự thua thiệt của Lụa ở thằng bé này. Có hai mặt con, chị Ngoan mới tròn hai mươi tuổi. Sự thăng hoa của đàn bà bây giờ mới đạt độ đằm thắm nhất.
Luồng gió mới của cách mạng thổi về cùng với một nhóm cán bộ cải cách ruộng đất Làng Phung vốn nhỏ bé, lặng tờ nay bỗng đảo điên nhốn nháo như túm rạ khô giữa cơn lốc xoáy. Chẳng hiểu cơn cớ ra sao mà vợ chồng Xuấn tự nhiên được các ông đội xâu chuỗi thành cốt cán. Ngoan ném con cho bà Thảo trông, suốt ngày cuốn vào chuyện hội họp, mít tinh, múa hát. Xuấn được đôn lên chức đội phó cải cách toàn tổng Cao Phong. Công việc bù đầu nhiều ngày Xuấn ở lì tại trụ sở uỷ ban. Vai trò của một cốt cán trong cuộc đấu tranh giai cấp quan trọng lắm. Nào xác minh lý lịch người này, định giá phẩm chất người kia, cùng đội tiến hành thanh toán giai cấp bóc lột, chia ruộng đất, giảm tô tức … Từ lúc nào Xuấn trở thành ông hoàng, người có quyền sinh sát ở địa phương. Những người có chút tài sản, cả những người nghèo mà lý lịch dính dấp đến cha ông là thành phần bóc lột, sợ Xuấn lắm. Họ thậm thụt, xu phụ ông bà Hạnh xin nấp bóng.
Ông bà Hạnh không yên tâm về những việc làm của anh con nuôi. Đã đôi lần ông khuyên bảo Xuấn phải sống cho có nhân có nghĩa. Ban đầu Xuấn im. Nhưng sau anh ta gắt:
– Ông bà già rồi, không tham gia công tác đoàn thể nên nghĩ đơn giản. Kẻ thù giai cấp như mầm cỏ ấu. Nó truyền từ đời này qua đời khác. Phải đào tận gốc, trốc tận rễ, mất cảnh giác là chúng phá cách mạng từ trong phá ra, từ dưới phá lên…
Bà Hạnh cũng bảo:
– Anh nói tôi không thông, làm gì cũng phải nghĩ đến đạo lý. Cải cách gì thì cũng không thể dạy người ta vô ơn. Chứ ai đời con dâu chỉ mặt bố chồng, gọi thằng nọ, thằng kia. Con rể nhổ vào mặt mẹ vợ, giật đứt cả hoa tai của người ta, vu cho người ta đủ thứ tội rồi bắt quỳ trước bàn dân thiên hạ, chỉ vì người ta có của. Chưa bao giờ tôi thấy con cái sống vô đạo như bây giờ.
Xuấn bảo:
– Cách mạng sáng suốt lắm!
Ông Hạnh nói:
– Tôi hơn sáu chục tuổi đầu, chưa thấy bao giờ nhiều địa chủ bằng thời này.
Xuấn cáu:
– Tôi nói rồi, quy nhầm còn hơn bỏ sót. Cấp trên bổ đầu năm phần trăm địa chủ là ít đấy. Bên Trung Quốc quy định bảy, tám phần trăm kia. Đấu tranh giai cấp, dù bố mẹ mình cũng không nể nang.
Sau bận ấy, Xuấn ở hẳn trên uỷ ban. Cô Ngoan đang độ hơ hớ, chồng bỏ vẳng không về, lại họp hành, múa hát, trai gái gần gụi đâm tự do, phóng khoáng. Một tối đã khuya, cuộc họp phần tử cốt cán vừa tan thì trời đổ mưa. Anh Vũ con trai duy nhất của ông Cam, ở liền nhà Ngoan rủ chị về cùng. Vũ có mảnh dù hoa lúc nào cũng đem theo người. Vũ hai lăm tuổi, nhưng vẫn chưa lấy được vợ vì nhà nghèo. Trong ánh chớp, Ngoan nhận ra Vũ nhìn mình bằng đôi mắt thèm thuồng nhưng e dè. Chị không nói, một lúc sau cầm mép vải dù kéo trùm lên đầu mình. Họ dìu nhau xuống bảy bậc thềm đình nhẫy rêu. Cái hơi ấm rực từ cơ thể anh trai tân phả ra hôi hổi, mơn man da thịt người đàn bà vắng chồng. Đường trơn, bốn bàn chân chầy chuột, nghiêng đổ. Từ lúc nào cánh tay như chão cuộn của Vũ ôm gọn đôi vai tròn lẳn của Ngoan. Đến cái hàng rào găng ngăn cách hai nhà, Vũ liều cầm tay Ngoan. Ngoan cúi đầu hỏi:
– Không biết sợ à?
– Tôi để ý đến Ngoan từ lâu . . . nhưng nghèo quá. Được Ngoan thương tôi chẳng sợ.
– Nhà tôi biết thì chết đấy.
– Ngoan ơi . . . tôi khổ lắm. Khổ hơn cả chết.
– Tối mai… cửa bếp tôi không buộc, chui rào mà sang.
Vũ hoá đá dưới màn mưa. Quả tim người đá nóng rẫy, nhảy loăng quăng trong vồng ngực rộng.
III
Hơn ba chục nông dân, phần đông phụ nữ ngồi như những bóng ma dưới ánh sáng của dãy đèn Hoa Kỳ ám khói. Ngồi bàn chủ toạ, Xuấn oai vệ, cái bút máy đòn càn lăm lăm trên mặt sổ. Người đội trưởng cải cách đứng dậy đọc, rồi giải thích chủ trương của cấp trên về việc phát động quần chúng đấu tố giai cấp bóc lột. Mấy chục đôi mắt quèm nhèm, mấy chục cặp tai dỏng lên như vịt nghe sấm. Càng về sau càng đông người ngáp ngủ. Đến lúc Xuấn đứng lên đọc danh sách những gia đình bị quy thành phần bóc lột mọi người bừng dậy ngơ ngác.
– Địa chủ Nguyễn Hải Kế, ruộng 10 mẫu, trâu bò 17 con, nhà ngói cổ 14 gian, quá giang, câu đầu gỗ lim, vách thung gỗ mít . . . Lợn . . . ! G à . . . Địa chủ Trần Hòa Bình, bố hắn Trần Đào Sùng, một thời là chánh tổng khét tiếng đại gian đại ác. Hắn đã chết, nhưng của cải bóc lột nhiều đời còn để lại ức vạn. Hòa Bình có tiệm vàng Ở phố Phủ, Sơn Tây và Hà Nội. Làng Phung còn truyền nhau câu ca:
“Nhất vàng ông Choác
Nhất bạc Đào Sùng
Nông dân làng Phung
Còng lưng trâu ngựa. . . “
Một người hỏi:
– Thưa quan đội, ông Choác là ai ạ?
– Chưa biết Choác là ai. Nhưng cứ theo câu ca, chắc chắn là ông nội của Bình, là bố đẻ Đào Sùng. Như vậy càng khẳng định mấy đời nhà nó nối nhau bóc lột nông dân… Tên thứ tám, Vũ Thị Tẽn (tức Tẽn Toét) người làng Phung. Thành phần: Cường hào. Bố chồng thị làm chánh tổng mới chết, có lần ủng hộ kháng chiến ít của cải, chồng Tẽn tên là Phương đi theo kháng chiến, mới có tin chạy sang làng Tề. Ruộng 1 mẫu, vườn. . . nhà ngói 3 gian.
– Dạ, thưa quan đội – Người đàn bà hùm hụp mảnh vải thâm che mắt, tay thu trước bụng đứng dậy vẻ ngượng ngừng – mẹ con cháu một chữ bẻ đôi không biết, cháu không làm cường hào được đâu ạ cháu xin nhường anh thẽm Cửu…
– Ờ phải đấy! Thẽm Cửu nghèo, nhưng có khoa ăn nói ra phết – Vài ý kiến ủng hộ.
– Thị Tẽn? – Dãy đèn run bần bật dưới cú đấm của Xuấn – Đây là hội nghị của chính quyền cách mạng. Không được nói ngang, nói ngửa.
– Nhà chị Tẽn Toét rõ thật – một giọng phản đối – cường hào phải giàu sang, có kẻ ăn người ở. Thẽm Cửu làm thế nào được. Người đàn bà ngẩn ra ngơ ngác rồi bỗng oà lên:
– Ối giời ơi ối ông Phương ơi. . . ông bóc lột ai, đè nén ai mà mẹ con tôi khốn khổ thế này…
– Dân quân đâu?
Hai thanh niên súng trường, mã tấu ập vào như hai ông hộ pháp mặt xanh nanh vàng ngoài cổng đình. Ngang lưng anh nào cũng một sợi dây da thít lấy bụng, ống quần buộc túm, oai vệ.
– Điệu cổ nó ra. Canh gác cẩn thận.
– Tuân lệnh !
Cuộc họp ở làng Phung với cung cách nửa bầu địa chủ, nửa thông báo thành phần bóc lột, kéo dài đến nửa đêm. Khi trong sổ tay của ông Xuấn và ông đội trưởng cải cách đủ năm phần trăm địa chủ, cường hào, nhóm người ấy mới được tha. Làng Phung những ngày căng thẳng. Bước chân du kích đi tuần trảm vào màn đêm nỗi thảng thốt.
*
* *
Ruỳnh, tà là ruỳnh… tà là ruỳnh… là ruỳnh là ruỳnh. Nhịp trống ếch thiếu nhi rộn trên đê làng cùng tiếng hô cháy họng: “Đả đảo bọn địa chủ, cường hào đại gian đại ác”.
– Đả đảo, đả đa..ảo?
– Đào tận củ, trốc tận rễ bọn bóc lột.
– Đào tận củ… đào tận củ…
Cờ, biểu ngữ phấp phới trên đầu đoàn người áo quần lôi thôi, rách rưới. Từ năm ngả đường của năm làng trong tổng Cao Phong, quần chúng rầm rộ kẻo về bãi chợ, nơi tổ chức đấu tố bọn bóc lột. Tiếng trống vọng vào xóm Đình. Thằng Mới con trai nhà Tẽn Toét vừa bị đôn lên thành phần cường hào, vạch rào chui ra, chạy phóng lên đê. Nó khoái trá nhìn đoàn người hùng dũng. Hàng trăm bàn tay nắm chặt thụi ngược trong không khí, khiến nó ngứa ngáy. Nó quên phứt lời mẹ dặn, phải tránh xa những nơi đông người, phải xưng là con, phải cúi đầu sợ sệt trước các ông bà nông dân mà trước nay vẫn là hàng xóm, láng giềng nhà nó… Thằng Mới nhập vào đoàn người, mon men đến gần lá cờ đỏ phần phật trong gió ngay bên cạnh ông Trần Văn Xuấn và ông đội trưởng cải cách. Thằng Tuất còm, bạn nó đang mắm môi mắm lợi giữ cán cờ khỏi nghiêng ngả. Mới len đến giúp bạn. Nhưng mắt nó liền trợn ngược, cổ vẹo theo một bàn tay hộ pháp xoắn đỏ tai.
– Quân này láo, thằng cường hào nứt mắt. Ai cho mày mó vào cờ cách mạng, hả.
Xuấn gầm lên, lôi thằng Mới ra mép đê rồi co chân đạp vào bụng nó. Tên cường hào con hộc lên, nhào xuống mái đê lổn nhổn đất đá.
– Đào tận củ bọn đại gian đại ác!
– Đào… Đào tận cu… ủ…
IV
Dạo này Ngoan và Vũ bỏ cả họp hành. Sức trai tơ, gặp gái nạ dòng thật thoả nguyện. ông bà lang Hạnh giận anh con nuôi ngày càng trở nên say quyền lực, làm nhiều điều thất đức với dân với làng nên lạnh nhạt cả với con dâu. Chuyện Ngoan phải lòng trai đã lọt tai Xuấn, mà ông bà thì mù tịt. Một tối mưa phùn, có bóng người rình chỗ đầu nhà Xuấn. Khi hàng rào găng khẽ rung lên, khuôn cửa bếp nuốt gọn một người to lớn, nó mới lặng lẽ bỏ đi. Mờ sáng hôm sau, Xuấn từ trụ sở đột ngột về nhà. Ngoan đang chải đầu, dáng bơ phờ, giật mình thấy Xuấn chặn ngang cửa. Đôi mắt sắc lạnh nhìn Ngoan như lột trần người vợ hư hỏng, Xuấn gằn giọng:
– Cô với thằng Vũ ngủ với nhau mấy lần rồi?
– Dạ, em lạy mình… em xin mình…
– Đêm qua là đêm thứ bao nhiêu?
Ngoan sụp xuống. Xuấn lại bảo:
– Trong lúc tôi đang ra sức đấu tranh với kẻ thù giai cấp, thì vợ một cốt cán lại đổ đốn đến thế. Mà với ai chứ, một thằng hèn mọn, mảnh khố không lành.
– Mình ơi . . .
– Câm! Ơn đền, oán trả. Cô muốn êm thấm, chỉ có một cách.
– Vâng… em cắn rau cắn cỏ lạy mình tha thứ.
Xuấn rút trong cặp ra một con dao cau. Ngoan trợn mắt bật lùi lại. Xuấn đặt con dao xuống mặt phản, lấy tiếp một cái túi vải bằng hai bàn tay. Giọng Xuấn khô khốc:
– Đêm nay cô gọi nó sang, lừa nó ngủ thật say, cắt… của nó bỏ vào cái túi này cho tôi. Ngoan lết tới. Hai tay cô run rẩy ôm chân Xuấn cuống quýt và thảm hại:
– Ôi, em lạy mình, em van mình, đừng. . . em sợ lắm . . .
– Hoặc ngày mai tôi có thứ tôi cần… Hoặc gian phu dâm phụ đeo mo vào mặt đi bêu quanh tổng, rồi tôi dắt về trả cho bố mẹ cô!
Ngoan trắng bệch, run như dẽ, càng ôm thít đôi chân Xuấn. Một cú thúc gối làm cô bật ngửa ra.
*
* *
Trời đã bềnh bệch nhưng mặt đất còn nhập nhoà tối. Sương sớm như nhát chổi khổng lồ của người thợ quét vôi đưa trên mảnh sân nhẫy rêu. Lão Cam xẩm xúi bò rồi quỳ. Thư thoảng lão lại cong gập người miệng hực lên như tắc thở. Mấy phút trước, thằng Vũ con trai lão trần truồng lê về nhà. Mắt nó trợn trạc, lưỡi co lại. Hai tay nó bấu cứng nơi hạ bộ lòm máu. Lão nhìn vào đấy, chỉ thấy một hố trống hoác, nhầy nhụa những mẩu gân trắng têu hếu. Vậy mà lạ sao lão không ngất, không cảm thấy run như lúc này. Vài tuần nay rồi, lão biết con trai lão phải lòng người đàn bà vợ ông đội Xuấn. Lão đã đe nẹt, mắng chửi, nhưng nó như bị ma ám.
Mặt Vũ đã đổ sáp, đôi mắt phủ một màng nước đờ đẫn. Lão xốc con lên, khí lạnh truyền sang tay lão. Vậy mà lúc ấy lão chỉ bàng hoàng nghĩ đến ông Xuấn. Cái người bấy lâu nay đã trở thành nỗi kinh hoàng, không chỉ của những người lớn ở tổng Cao Phong. “Nín đi, không có ông Đội đến kìa! ông Xuấn mà biết thì mày chết …”. Người ta dọa cả trẻ con bằng những câu như thế. Bây giờ nỗi sợ ông Xuấn choán hết tâm trí lão Cam. Nó đánh dạt cả nỗi xót con của lão. Ì ạch vần được thằng con đã chết trong cái thế của kẻ chết trôi lên cái chõng tre, lão Cam đưa mắt ra sân. Lão giật thót mình, rồi cứ thế lão lụi cụi bò ngược trở lại phía nhà Xuấn. Chiếc khăn mặt rung rúc mầu cháo lòng ướt sũng máu. Mà cái dây máu vẫn còn dài. Lão vội lột mảnh áo trên người, lại gập mặt xuống sát đất. Lão lau đi lau lại cái vết nhục nhã. Lão muốn phi tang chuyện lòng thòng tai tiếng của con trai. Mãi đến lúc đầu lão chạm phải cái ống quần thõng thượt của Vũ trên cành rào găng, lão mới rú lên.Bộ quần áo còn âm ấm vừa bị vứt trả lại!
Lão Cam ôm bộ quần áo vào nhà. Vất vả lắm lão mới lồng được hai ống quần vào chân Vũ. Rồi lại một mình, lão vần, đẩy, xoay cái hậu sự ra giữa nhà. Cái hậu sự giành cho lão, nay phải dùng cho thằng con. Lão vơ quáo vơ quào mạng nhện và những hạt thóc còn sót trong đó. Tay lão bết máu. Cổ lão nghẹn tắc, mà lão không dám nghỉ. Nỗi sợ, nỗi nhục khiến lão Cam trở nên mạnh mẽ. Lão liệm con bằng mảnh dù hoa, đắp lên người nó thêm cái chăn chiên. Rồi lão chốt đinh bốn mép quan tài. Lão không gá mộng. Lão không muốn ai biết được nguyên nhân cái chết của con. Mọi việc đã xong xuôi, lão chạy ra vườn phạt ngang thân một cây chuối con, tiện lấy một khúc. Lão lật bật châm bảy nén nhang cắm vào đấy, để lên mặt ván thiên. Lúc ấy lão mới hộc to lên. Như là người không xương, lão nửa quỳ nửa vịn vào quan tài con mà khóc. Tiếng khóc thê thiết vào lúc tờ mờ sáng gây nên nỗi kinh hoàng cho hàng xóm:
– Ối Vũ ơi. Ới con ơi… nỡ nào con vội bỏ thầy con đi…i…i. Ối con ơi. Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh đã rụng. . . thảm thương con ời ời…
Chân chạy ruỳnh ruỵch. Người làng đổ đến mỗi lúc một đông. Bây giờ lão Cam gào càng to hơn, nhưng rõ hơn. Mọi người bàng hoàng khi biết Vũ chết vì bị trúng gió. Gió độc làm anh chết bất đắc kỳ tử khi anh dậy đi đái đêm.
Bên này hàng rào găng, Ngoan run rẩy như kẻ tử tội chờ phút hành quyết. Đến lúc nghe lão Cam nói dối về cái chết của Vũ, Ngoan lại thấy nỗi đau tê tái chồi lên, chồi lên quật chị lăn lộn trên cái giường đẫm máu và nước mắt. Sau cái chết của Vũ, Ngoan trở nên lầm lì. Chị lạnh lùng với tất cả mọi người . Xuấn cũng về dự đám tang Vũ. Xong việc, anh ta nhận cái túi và con dao đem lên uỷ ban. Dân làng tuy cám cảnh cha con ông lão Cam, nhưng bao nhiêu việc lớn cuốn hút tâm trí họ. Có lẽ người đau đớn nhất trong vụ hãm hại này, ngoài lão Cam, là ông bà lang Hạnh và bố mẹ chị Ngoan. Cái kim để trong bị lâu ngày cũng thò đầu ra, sự chết của Vũ chẳng giấu được ai. Ông lang Hạnh lặng lẽ dựng một hàng rào chặn ngang khoảng đất giữa nhà ông với nhà anh con nuôi. Mỗi khi có ai hỏi, ông bà lãnh đạm bảo: “Thưa, nhà ông Xuấn đi cổng bên”. “Dạ, việc ấy bủ nên bẩm trực tiếp với ông đội”… Bà Thảo bỏ cả bán hàng xén. Ông lang Hạnh vẫn cắt thuốc, nhưng rất ít khi thấy ông ra khỏi nhà. Chỉ có một bận dân làng gặp ông bà cùng đi giữa ban ngày ban mặt. Đó là ngày ông Đồ Phán chết. Ông Phán chết cũng lạ. Đang khoẻ mạnh, tinh anh mà ông đột ngột quy tiên. Người ta đồn ông uống thuốc phiện pha dấm thanh. Ông bà lang Hạnh đem lễ đến phúng viếng người bạn đồng tuế, hồi nhỏ cùng học một thày. Ông thướng tiền cho ban thợ kèn bảo khóc ông đồ theo lễ bạn học. Không một lời nhắc đến tình thông gia. Thế nghĩa là ông quyết dứt tình bố con với Xuấn. Ông coi mình vô can với mọi tội ác mà anh con nuôi ngày ngày gây ra với dân làng. Vậy mà trong sâu thẳm tâm can, ông bà cứ bị dày vò vì cái việc làm phúc nhận nuôi Xuấn, cho nó mang họ ông. Ở đám tang ông đồ Phán, vừa trông thấy mặt vợ chồng Xuấn, ông Hạnh cáo từ xin về. Lúc ở nhà, trừ hai đứa cháu, vợ chồng Xuấn mà sang thăm, ông lại xua đuổi như xua chó. Xuấn như không hề lấy làm buồn. Cái máu nông dân nắm được quyền lực nhanh chóng nhiễm thói gia trưởng, độc đoán. Lại là người xảo quyệt, nhẫn tâm, Xuấn hiện thân bạo chúa, nắm cái gậy chuyên chính. Việc hủ hoá và giết người của Ngoan, Xuấn không hề nhắc đến, càng khiến Ngoan thấp thỏm, lo sợ. Cái án Xuấn treo trên đầu vợ chưa biết sẽ sập xuống lúc nào.
*
* *
Trước hôm làm tuần trăm ngày cụ đồ Phán, ba mẹ con Ngoan lên ngủ trên nhà mẹ đẻ để chuẩn bị cỗ bàn. Xuấn bảo bận họp đến trưa mới về được. Tuần cúng, ăn mười mâm. Khách khứa về cả mới thấy Xuấn đủng đỉnh đến tế bố vợ. Xuấn trịnh trọng đặt lên bàn thờ gói lễ bọc giấy đỏ và chai rượu, thẻ hương. Xong thủ tục nghiêm cẩn của bề tôi con với cha mẹ, Xuấn ngồi ăn cơm. Một mình anh ta một mâm. Chị Ngoan ngồi bên cạnh xới cơm tiếp rượu cho chồng. Xong bữa, Xuấn chơi với thằng Dương một lúc rồi xin phép bà đồ, dặn vợ trông nom cửa nhà, anh ta đi họp huyện, tổng kết “công tác cải cách” vài hôm.
Đợi con gái thu xếp bát đũa xong, bà đồ Phán gói cho ba mẹ con xôi, thịt. Lại giục chị xem bố nó viếng ông cái gì, có phải bánh kẹo thì chia cho trẻ con ăn. Ngoan vui vẻ nhắc gói lễ xuống, bóc lượt giấy điều Chị thấy lạ. Bên trong một hộp gỗ mỏng sơn son. Nắp hộp bật mở, Ngoan rú lên miệng trào máu. Một cái hạ bộ người khô quắt queo lăn ra mặt phản. Bà đồ trợn mắt, tay vịn mép phản. Bà từ từ khuỵu xuống. Đôi mắt thất tròng ngước lên bàn thờ chồng. Đám khói hương bỗng đỏ lòm màu máu. Máu liếm vào bài vị. Cả bàn thờ như rùng rùng bốc lửa. Bà đồ Phán hộc lên, lao ra cái giếng khơi đầu nhà. Ngoan chồm dậy. Chị nhìn thấy thằng Dương đang chới với nơi mép phản. Ngoan ôm được nó. Bóng bà đồ vụt qua, Ngoan hiểu ra tất cả. Chị nhào theo. Bà Phán như bay trước mắt Ngoan, gần lắm, gần lắm mà chị không với tới được.
– Bầm… ầm… ơi…
Ngoan vập vào thành giếng. Chị đờ đẫn cúi xuống. Mặt nước vẫn còn xao động. Bong bóng vồng lên vồng lên từng đợt. Miệng Ngoan lại trào máu, máu chảy xối trên mặt thằng Dương. Một tiếng á… a… nối nhau khuếch tán theo tang giếng bay lên.
Chập choạng chiều hôm đó, cả làng Phung lặng lẽ nối thành cái đuôi dài xám xịt theo sau ba chiếc quan tài bò về bãi tha ma. Gió bấc vi vút châm vào da thịt đoàn người như tăng thêm sự thê lương. Đám tang tập thể không kèn trống, cờ phướn trong chập chiều nắng quái kinh dị ấy diễn ra vồi vội như ma đuổi.
Ngày hôm sau, người liên lạc của uỷ ban lên huyện báo tin. Xuấn về cùng một tổ du kích. Du kích gác vòng ngoài. Xuấn lững thững một mình vào trong căn nhà hoang. Một lát sau, Xuấn trở ra, trên tay cầm gói giấy. Xuấn đến bên thành giếng, đứng im lìm rồi thong thả nhặt từng thứ trong gói thả xuống. Con dao cau lưỡi thâm xì một vệt. Chiếc hộp. Và cuối cùng một vật quắt queo tựa miếng măng khô… không ai nhận thấy cái nhếch mép rất nhanh của Xuấn. Xong việc, Xuân co chân đạp mạnh thành giếng. Từng tảng đá ong lăn ùm xuống nước.
V
Sau ngày đội cải cách ruộng đất ở tổng Cao Phong rút về huyện , mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường. Chỉ có hai sự kiện nhỏ xảy ra ở làng Phung. Cái Lụa sau đám tang bà, mẹ và em trai, người làng gặp nó cứ tha thẩn ngoài tha ma. Nó bốc cơm trứng cúng ở mả để ăn. Ông bà lang Hạnh đưa nó về nuôi, lại ra sức chạy chữa, nó khỏi bệnh dở người nhưng da dẻ nó bắt đầu sần sùi như da cóc, trông rất sợ.
Việc thứ hai là Trần Văn Xuấn chết. Một cái chết kỳ lạ, giống như nhiều điều kỳ lạ, quái gở diễn ra ở làng Phung. Một đêm mưa rét, Xuấn bị trói vào gốc gạo, cách trụ sở uỷ ban một con ngòi. Bụng bị phanh. Hạ bộ bị cắt. Một sợi dây ròng từ trên cành gạo xuống treo lủng lẳng trước mặt Xuấn cái hạ bộ của chính anh ta, đầu dương vật nhét vào miệng. Không hiểu ai là thủ phạm vụ hành quyết ghê gớm này. Huyện cử người về điều tra nhưng không kết quả. Có tin đồn con cháu bọn địa chủ, cường hào trốn sang vùng Tề dạo cải cách, trở về trả thù.
*
* *
Sau ngày an táng ông tôi, cả nhà thơ thẩn. Tôi giấu nỗi đau buồn bằng việc đào bới trong cuốn gia phả cái điều khiến ông tôi vật vã đau đớn trước phút lìa trần. Tôi đã tìm thấy một trang kỳ lạ không giống bất kỳ trang nào cả về văn phong, nét chữ và mực viết. Thứ mực bờn bợt nhọ nhọ trông ghê ghê như bồ hóng trộn vôi. Thần chữ sắc lạnh, cứng cỏi. Trang về đứa con nuôi :
“Trần Văn Xuấn (con nuôi làm phúc) chi thứ hai, đời thứ mười”. Gia phả viết ngày Bính Tuất, ngày sát chủ, năm… Trên đầu trang có bài thơ sáu câu bằng chữ Hán, dịch nôm na rằng:
Dân là gốc, gốc nở cành sinh ngọn
Nước là nguồn, cho bể rộng sông sâu
Người ta nguồn, gốc từ đâu?
Có tổ tiên trước rồi sau có mình!
Ác nhân ác giả vô ảnh vô hình
Nhân bồi nhân nở, sinh sự sự sinh.
N.T.T