Thật ra nhờ thi rớt, nhờ bất đắc chí, nhờ thất tình với các ca nương trong chốn yên hoa, nhờ sống lây lất bất cần đời trong chốn ăn chơi trác táng mà thơ và ca từ của Liễu Vĩnh mới gợi tình gợi ý và mới đánh động được lòng người với những cảm xúc rất chân thật như đời thường, rất thấm thía với cuộc sống nhân sinh. Ông lấy vợ từ năm 17 tuổi, vợ là Thiến Nương 倩娘 tuổi mới 15, là một tiểu mỹ nhân eo thon xinh xắn, ngây thơ đáng yêu như lời từ của ông miêu tả trong bài "Đấu Bách Hoa 鬥百花" :
满搦宫腰纖细, Mãn nhược cung yêu tiêm tế,
年纪方當笄歲。 Niên kỷ phương đang kê tuế.
剛被風流沾惹, Cương bị phong lưu triêm nhạ,
与合垂楊双髻。 Dữ hợp thùy dương song kế.
初學嚴妝, Sơ học nghiêm trang,
如描似削身材, Như miêu tự tước thân tài,
怯雨羞雲情意。 Khước vũ tu vân tình ý,
舉措多嬌媚。 Cử thố đa kiều mỵ !
Có nghĩa :
Eo thon còn lỏng vòng tay,
Cập kê tuổi mới biết cài trâm hoa.
Phong lưu e ấp dáng ngà,
Tóc mây tựa liễu bím xòa hai mang.
Lần đầu mới biết điểm trang,
Thân thon mình nhẹ miên man ý tình.
Mây mưa e thẹn chưa rành,
Yêu kiều diễm lệ cho đành lòng nhau.
Vừa ngây thơ vừa đáng yêu Thiến Nương lại vừa chu đáo, biết Liễu Vĩnh khi điền từ ít khi chừa nháp, nên mới âm thầm thu nhặt hết những bài từ của chồng, gom góp lại thành một "Nhạc Chương Tập 樂章集" với lời đề tựa rất dễ thương :"Phu quân Kỳ Khanh 耆卿 của tôi rất giỏi về từ. Người không biết thì cho đó chỉ là những lời ướt át ủy mị, còn người thông hiểu thì cho đó là những tâm huyết đóng góp cho từ đàn...". Có được người vợ như thế còn gì qúy giá và hạnh phúc hơn nữa. Đáng tiếc là người tốt lại vắn số, nên khi tuổi còn rất trẻ nàng đã bỏ Liễu Vĩnh mà về cỏi vĩnh hằng. Ông lại vì người vợ thân yêu mà viết bài "Phụng Thê Ngô 鳳棲梧" với những lời thương nhớ rất não lòng như sau :
佇倚危樓風細細, Trữ ỷ nguy lâu phong tế tế,
望極春愁,黯黯生天際。 Vọng cực xuân sầu, ảm ảm sinh thiên tế.
草色煙光殘照里, Thảo sắc yên quang tàn chiếu lý,
無言誰會憑闌意。 Vô ngôn thùy hội bằng lan ý.
擬把疏狂圖一醉, Nghĩ bả sơ cuồng đồ nhất túy,
對酒當歌,強樂還無味。 Đối tửu đương ca, cưởng lạc hoàn vô vị !
衣帶漸寬終不悔, Y đới tạm khoan chung bất hối,
為伊消得人憔悴。 Vị y tiêu đắc nhân tiều tụy !
Có nghĩa :
Lầu cao gió nhẹ một thân,
Xuân sầu mút mắt tần ngần riêng ta.
Nắng tàn cỏ úa nẻo xa,
Âm thầm lặng lẽ nhạt nhòa lan can.
Muốn say một trận cho cam...
Rượu, ca vô vị vui làm sao đây !?
Lỏng vòng xiêm áo ai hay...
Vì ai tiều tụy hao gầy vì ai ?!
Quả là một tấm lòng chân thành của một người chồng khóc thương vợ. Nhưng song song với cuộc sống trong chốn yên hoa, Liễu Vĩnh cũng rất chân tình rất thật lòng với tất cả những ca nhi kỹ nữ, các người đẹp ca nương nổi tiếng ở chốn thanh lâu... Sau khi liên tục thi rớt, ông gần như sống hẵn ở các xóm yên hoa như một thành viên bao cấp không thể thiếu. Ông vừa dạy nhạc lý vừa điền từ cho các nhạc công và ca kỹ ở giáo phường, khiến cho các nàng luôn luôn được tán thưởng và bội thu, nên việc cơm áo cũng khỏi phải lo toan.
Năm Thiên Thánh thứ hai (1024), lần thứ tư thi rớt, rời kinh sư trong nỗi phẫn hận buồn thương lại bị người tình lúc bấy giờ là Trùng Nương ruồng rẫy, Liễu Vĩnh đã làm bài từ nổi tiếng tiêu biểu cho thể từ ủy mỵ ướt át của ông là 《Vũ Lâm Linh. Hàn Thiềm Thê Thiết 雨霖鈴·寒蝉凄切》sau đây :
多情自古傷離别, Đa tình tự cổ thương ly biệt,
更那堪,冷落清秋節! Cánh na kham, Lãnh lạc thanh thu tiết !
今宵酒醒何處? Kim tiêu tửu tỉnh hà xứ ?
楊柳岸, 曉風殘月。 Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt.
此去经年, Thử khứ kinh niên,
應是良辰好景虚設。 Ưng thị lương thần hảo cảnh hư thiết.
便縱有千种風情, Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,
更与何人說 ? Cánh dữ hà nhân thuyết ?!
Có nghĩa :
Đa tình vốn khổ xưa nay,
Huống trong hiu hắt ai hoài tàn thu.
Đêm nay rượu tỉnh nơi mô ?
Bên bờ liễu rủ trăng mờ gió lay.
Biệt ly đã suốt năm nay,
Đoàn viên cảnh đẹp chỉ hoài công thôi.
Cho dù tình có ngất trời,
Nỗi lòng biết tỏ với ngưới nào đây ?!
Trở về với cuộc sống trong xóm yên hoa, khi điền ca từ cho hoa khôi nổi tiếng ở Hàng Châu lúc bấy giờ là Tạ Thiên Hương 謝天香 ông bắt gặp một tập "Liễu Thất Tân Từ 柳七新词" là Các bài từ mới sáng tác của Liễu Thất với nét chữ chép tay thanh tú của người đep. À, thì ra hoa khôi tài sắc song toàn nầy đã cảm mến ông từ lâu. Từ đó hai người gắn bó lấy nhau không rời xa nhau nửa bước và cùng hẹn ước tiến đến hôn nhân. Liễu Vĩnh có người bạn thân là Tiền Khả là quan Phủ Doãn nơi đó; Khả khuyến khích Vĩnh lai kinh ứng thí, mình sẽ thay Vĩnh mà chiếu cố cho Thiên Hương. Qủa nhiên, sau khi Vĩnh lai kinh, Khả đã chuộc Thiên Hương về phủ với danh nghĩa là Thiếu phu nhân; Nhưng suốt thời gian ba năm trường Khả không hề thân cận, Thiên Hương rất lấy làm lạ. Mãi đến năm Cảnh Hựu Nguyên niên 景祐元年(1034)Liễu Vĩnh đậu Tiến sĩ vinh quy trở về, Tiền Khả mới mời bạn đến nhà trao trả lại Thiên Hương cho chàng và nói cho Vĩnh biết là mình giữ Thiên Hương trong phủ chỉ là để thay cho Liễu Vĩnh chiếu cố nàng mà thôi. Bấy giờ Thiên Hương mới vỡ lẽ ra, hai người rất cảm động và cùng tạ ơn cho tấm lòng tốt có một không hai của Tiền Phủ Doãn. Trong niềm cảm khái Liễu Vĩnh đã viết nên bài từ《Hợp Hoan Đới 合歡帶》sau đây :
桃花零落,溪水潺湲, Đào hoa linh lạc, khê thủy sàn viên,
重尋仙徑非遙。 Trùng tầm tiên kính phi diêu.
莫道千金酬一笑, Mạc đạo thiên kim thù nhất tiếu,
便明珠、萬斛須邀。 Tiện minh châu, vạn đấu tu yêu.
檀郎幸有,凌雲詞賦, Đàn lang hạnh hữu, lăng vân từ phú,
擲果風標。 Trịch qủa phong tiêu.
況當年,便好相攜, Huống đương niên, tiện hảo tương huề,
鳳樓深處吹簫。 Phụng lâu thâm xứ xuy tiêu !
Có nghĩa :
Hoa đào rơi, nước chảy xuôi,
Đường về tiên cảnh núi đồi là đây.
Ngàn vàng cười nói vui vầy,
Nâng ly vạn chén cùng mời nhau say.
Đàn lang Phan Nhạc xưa nay,
Bài từ cao vút ngàn mây lưng chừng.
Như nay tay bắt mặt mừng,
Thổi tiêu lầu phụng riêng lòng ngẩn ngơ !