Lê Đức Nghinh
THÁNG NĂM KHÔNG QUÊN.
Giỗ này tôi lỡ hẹn không lên
Chắc Nà Cáy mây còn buồn ngơ ngác
Hồn liệt sỹ vẫn nằm quanh bãi đất
Đêm qua mưa lạnh, ướt cả rồi.
Vọng nơi ấy về, các bạn tôi
Ngợp phía bên kia giờ yên vắng
Sóng Lô giang ru hồn trầm lặng
Đỉnh 812, giông tố bớt ầm ào.
Gió vô tình đừng để... lạc hồn đau...
Chuyếnh choáng quá như bóng người ngã xuống.
Thổn thức mãi đồng đội còn đang sống
Muốn đem sông cọ rửa đến Kỳ Cùng.
Kho hậu cần ngày ấy rỗng không
Muối gạo chia nhau hết lúc nào chẳng rõ
Quần áo lính chưa kịp khô đã bầm máu đỏ
Vết đạn dọc ngang chém nát mặt đường.
Sông suối oằn mình đỡ, kín vết thương...
Thung lũng còn sặc mùi khói đạn
Khát khô đến từng dòng suối cạn
Đỉnh 673 nham nhở trắng mây trời.
Giỗ trận lần này tôi ko kịp lên thôi!...
Đồng đội mất bát cơm đơm chẳng có...!
Pháo cày sỏi đá như xay đỗ
Hầm bạn nằm trúng đạn cũng tan hoang
Những nhà dân âm ỉ dưới tro tàn
Thấp thoáng bóng người trùm bóng núi
Mây điềm tĩnh bóng buồn len khe suối. Tay sần chai sau mỗi buổi khoét hầm.
La liệt thương binh nằm
Vết thương còn rỉ máu
Lòng hang nóng, sục sôi lời tháng sáu
Lo biên cương mảnh đất chửa bình yên.
Lại hiện về bao gương mặt tôi quen
Hốc hác cười sau bóng núi
Những người không tính tuổi
Vẫn trẻ trung đến tận bây giờ.
Gửi đồng đội nén tâm hương ngấm lệ
Sợ đêm tàn, gió lạnh mỗi cơn mơ...
GIỖ TRẬN
Nén hương vọng nhớ người không về nữa
Anh nằm đây đất, đá hóa nâu trầm.
Địa danh sớm thành miền cổ tích
Pháo rền về trong gió núi âm âm.
Đồng đội còn neo trên điểm tựa
Ngàn năm ai biết!...đá lưu danh
Máu chảy... nếu người quên chép sử
Đời sau con cháu chẳng yên lành.
Hỡi Sông Lô cồn lên lũ đỏ
Lèn đá xưa chân bỏng, không chồn
Đỉnh một nghìn, sẹo còn loang lổ
Vách tai mèo, giặc đến hóa mồ chôn.
Đất Vị Xuyên vùi mình trên lửa
Trập trùng điểm chốt đá lưu tên
Nơi nham thạch cũng thành công sự
Ngày đêm tới tấp pháo giặc rền.
Dấu đạn cày sâu, dày dấu cũ
Đã bao năm sẹo núi chưa liền
Cây cụt hóa chứng nhân lịch sử
Chấm than Trời!... nghi ngút khói nhang... lên...
Bà mẹ còng lưng bên mộ khóc
Khắp đồi bia mộ, trắng run lên
Đồng đội cũ ngẩn ngơ ngày giỗ trận
Hương ngã!... tìm phương Bắc... chẳng nguôi quên...
ĐẾN VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
Gạch đá còn loang lổ
Đầu đao vương oan hồn
Khóc than chiều hoang lạnh
Hỏa Phong Đài mưa tuôn
Tạc mặt người đau khổ
Thăm thẳm mắt cô hồn
Nghĩa địa dài vô tận
Xây cất từ máu xương.
Mây thẫn thờ bảng lảng
Bên vực sâu kinh hồn
Hằn lưng vết roi gậy
Quất tím chiều hoàng hôn.
Du khách men vách đá
Nghe tim đập chân run
Than oán!... xưa thoáng hiện
Vọng lên trong chiều buồn...
THĂM LẠI CÁC ANH
Còn rải rác chỗ nằm người đã khuất
Các anh đi, mộ chí hóa vô danh
Trong lòng đá còn mang đầy thương tích
Trầm ngát hương lên sẹo đất đang lành.
Dọc biên cương mỗi lần thăm lại
Trùng trùng bia trắng, mắt nhòe cay
Mỗi mẩu đá lưu giữ phần máu thịt
Ấm mãi lên từng thớ đất nơi này.
Tôi trong số bao nhiêu người sống sót
Mất mát, hy sinh các anh nhận về mình
Tuổi hai mươi trở thành bất tử
Để đất nước này sự sống được hồi sinh.
Gọi tên anh như mỗi lần thay gác
Nghe âm âm từ lòng đất vọng lên
Câu thơ viết giữa dòng nghẹn lại
Như nhắc mình người được sống đừng quên.
Câu viết dở giữa nghĩa trang đồng đội
Nén hương cong... dấu hỏi chấm ngang trời
Đất, sỏi đá in dáng hình quen thuộc
Thấp thoáng nơi này đâu cũng bóng bạn tôi...!!!...!!!
L.Đ.N