Phạm Trọng Thanh
TIẾN SĨ ĐỖ TÔNG PHÁT-
Thành tựu dinh điền công huân muôn thuở
Năm 2001, cuốn sách “Tác giả thơ văn Hán Nôm Hải Hậu” (tập 1), do nhà nghiên cứu sưu tầm Đoàn Ngọc Phan (nguyên cán bộ Phòng Giáo dục Hải Hậu, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định) biên soạn, phòng xuất bản Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định ấn hành, bước đầu giới thiệu 30 tác giả quê hương Hải Hậu. Đây là một công trình hoàn thành sau ba mươi năm sưu tầm nghiên cứu, dịch thuật, góp phần bảo tồn di sản văn học Hán Nôm trên quê hương Hải Hậu. Khi còn công tác tại Phòng xuất bản của Hội, tôi hân hạnh được phân công biên tập và viết Lời giới thiệu công trình này.
Trong 30 tác giả hiện diện trong cuốn sách này, có 3 tác giả họ Đỗ, thuộc 3 thế hệ: cha, con, cháu. Đó là: Tiến sĩ Đỗ Tông Phát, Cử nhân Đỗ Bỉnh Thành và tác giả Đỗ Hồng Tiệm.
Trước khi trình bày thân thế, sự nghiệp để lại muôn đời của Tiến sĩ Dinh điền sứ Đỗ Tông Phát, xin được lược thuật về sự nghiệp và trước tác của hai hậu duệ Đỗ Tiến sĩ.
Cử nhân Đỗ Bỉnh Thành (1842 – 1893).
Ông là con thứ Tiến sĩ Đỗ Tông Phát, tên hiệu là Hạc Cao, đỗ thủ khoa thi Hương khoa Canh Ngọ (1870), được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương). Khi giặc Pháp chiếm mất đất, ông cáo quan về quê phụng dưỡng cha mẹ già và dạy học. Ông là nhà thơ tài năng, tác phẩm:
-Bài Minh tu sửa chùa Lương (xã Hải Anh, Hải Hậu), nguyên văn chữ Hán (Đoàn Ngọc Phan trích dịch):
“Chùa Lương quê ta
Bãi bể bồi trước
Vua Lê dựng nước
Tịch điền tụ dân
Tục hậu phong thuần
Đất thiêng người giỏi
Lòng thành cầu bói
Tên đẹp đặt cho
Rằng: Phúc Lâm tự
Ngược dòng lịch sử
Kỷ Tỵ Cảnh Hưng (1740)
Tu tạo gia tăng
Hành lang Phật tượng
Chuông vàng vang vọng
Bia đá ngời ngời
Vật đổi, sao rơi
Có hình có hoại
Tiếp bước tiền bối
Gặp hội Hưng Long
Vốn quê xã Trung
Sư Thông Quang Chấn
Vốn dòng Tâm ấn
Y bát giữ chùa
Tuệ chúc đàm hoa
Phật tòa tăng xá
Thay cũ đổi mới
Hảo hữu mọi nhà
Thiện nam tín nữ
Góp công góp của…”
Vua Tự Đức năm thứ 36, tháng 6 ngày 15 (tức 18-7-1883). Hàn Lâm viện, trước tác: Giải nguyên khoa Canh Ngọ (1870) Hạc Cao tử (Đỗ Bỉnh Thành) soạn.
-Hai bài thơ chữ Hán: Đáo Vị thành hữu cảm, Cảm thời được chọn
in tại phần II: “Tác phẩm trong phong trào Văn học yêu nước” tuyển tập “Văn học yêu nước và cách mạng Hà Nam Ninh”, tập I (Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội – Hà Nội, 1981).
Phiên âm:
ĐÁO VỊ THÀNH HỮU CẢM
Tuyệt liên tâm dữ sự tương vi,
Cảm khái trầm ngâm chỉ tự bi.
Thành quách giang sơn do bán thị,
Nhân dân phong tục dĩ toàn phi.
Hỏa thuyền yên diệm thông hoàng đạo,
Xa lộ trần phân bạc thúy vi.
Tối thị ẩn trung nan bạch xứ:
Hồ nhân, na quản Việt nhân phi?
Đỗ Bỉnh Thành
Dịch thơ:
Cảm xúc khi tới thành Vị
Sự đời trái khoáy, nghĩ mà đau,
Biết ngỏ cùng ai nỗi thảm sầu.
Thành quách nọ kia còn nửa đó,
Dân xưa tục cũ có toàn đâu?
Tàu bè khói bốc đen trời thẳm,
Xe pháo bụi bay trắng núi sâu.
Day dứt nỗi riêng không chốn giãi:
Máu dân bao đủ béo quân thù?
Nguyễn Văn Huyền dịch
Phiên âm:
CẢM THỜI
Y thùy cảo mục, niệm thời nan?
Hạ hữu tiềm phu thế tứ xan.
Nhân diện nghiễm nhiên thành quỷ quắc,
Hoa phong thốc nhĩ hóa mao man.
Sưu tô quan lại phân truy tróc,
Đồn thú quân binh điệt vãng hoàn.
Dương pháo, Hồ già thanh quát nhĩ,
Cung lung ô yết thị triều gian.
Đỗ Bỉnh Thành
Dịch thơ:
Cảm xúc về thời thế
Cậy ai, đất nước buổi gian nan,
Những ngẫm nguồn cơn, nước mắt giàn.
Chẳng mấy, mặt người thành quỷ dữ,
Bỗng nhiên, tục tốt hóa di man.
Lăng xăng, quan lại đốc tô thuế,
Lúc nhúc, quân binh chật trại đồn.
Súng Pháp, kèn Tàu nghe nhức óc,
Đầy đường, khắp chợ tiếng than van.
Mai Thanh dịch
-Bài thơ chữ Nôm (để Bố họa lại):
THĂM CHÙA
Trời đất dành ta sẵn một hồ,
Bước vào của Phật niệm nam vô.
Tam thừa trước án đèn chưa tắt,
Bát bộ trên tòa tượng mới tô.
Kỳ thụ vườn kia hoa thấp thoáng,
Tu di non nọ đá lô xô
Có người có cảnh thêm vui thú,
Lọ phải Tam giang với Ngũ hồ.
Đỗ Bỉnh Thành
Tác giả Đỗ Hồng Tiệm (chưa rõ năm sinh, năm mất)
Ông là con Giải nguyên Đỗ Bỉnh Thành và là cháu đích tôn Tiến sĩ Đỗ Tông Phát. Về tác phẩm, Đỗ Hồng Tiệm có 2 bài phú:
-Văn tế Thuốc phiện (in trong Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính).
- Bài phú Tập Kiều. So với Văn tế thuốc phiện thì bài phú Tập Kiều đặc biệt hơn vì tác giả dựa theo những câu thơ quen thuộc trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà đưa đẩy ngọn bút. Bài phú khá dài, trích một đoạn:
“Rủ bức rèm châu,
Đốt lò hương cổ,
Còn thoang thoảng trầm,
Thấy hiu hiu gió
Thanh khí một dây một buộc, ai giằng cho ra,
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, thấy người nằm đó,
Nguyên phù (Mới đầu):
Mấy gánh phù dung,
Trăm năm trong cõi.
Lạc lối Đào nguyên đâu đến,
giá càng treo, phẩm càng cao,
Mua ở Bắc Kinh đưa về,
ngàn cũng qua, sông cũng lội…”
Đỗ Hồng Tiệm
Tiến sĩ Dinh điền sứ Đỗ Tông Phát (1812 – 1893) -
Cuộc đời và sự nghiệp
Đỗ Tông Phát tự Xạ Phu, tên hiệu Mai Hiên, sinh năm 1812, tại thôn Tây, xã Quần Anh Hạ, huyện Chân Ninh, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định). Xuất thân con nhà nho nghèo. ông là con trai của sinh đồ Đỗ Kim Quỹ và bà thân mẫu họ Phạm. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ, bà mẹ phải đi làm mướn nuôi con ăn học.
Mặc dù cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, Đỗ Tông Phát học hành rất siêng năng. Nhờ được thầy là cụ Nghè Ngô Thế Vinh người làng Bái Dương, huyện Nam Chân (nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) hết lòng dạy bảo nên Đỗ Tông Phát nổi tiếng xuất sắc.
Kỳ bình văn được tổ chức năm 1839 tại đình giáp Tứ, xã Quần Phương Trung (Hải Trung), quyển của Đỗ Tông Phát đã được thầy phê như sau:
“Phú trúng đa hữu giai cú, tẩm tẩm hồ nhập giai cảnh”. Nghĩa là: “Trong bài phú có nhiều câu hay, dẫn dắt người ta vào cảnh đẹp”.
Một kỳ bình văn sau đó, quyển của Đỗ Tông Phát lại được thầy phê:
“Bát vận pháp môn, ngô môn trung Trần Thúc Khiêm cử nhân hữu ngộ khiếu. Tỷ đẳng phú tân, bất hứa Trần tử chuyên tịch”.
Nghĩa là: “Cử nhân Trần Thúc Khiêm trường ta hiểu thấu, quán triệt về bát vận pháp môn, thể văn tám vế, nếu đem so sánh với bài phú mới này, hẳn sẽ không để thầy cử Trần giữ mãi chiếu trên”!
Quả nhiên năm sau, thi Hương khoa Canh Tý (1840), Đỗ Tông Phát đỗ Giải nguyên - Thủ khoa trường thi Nam Định. Chuyện xưa truyền lại rằng, khi người ta đến báo tin Đỗ Tông Phát đã đậu Giải nguyên thì bà thân mẫu họ Phạm còn đang đi cấy thuê và phải xin khất tiền thù lao cho người đi báo tin mừng!
Tiếp đến thi Đình, khoa Quý Mão (1843), ông đậu Tiến sĩ khi mới 31 tuổi. Đáng lẽ Đỗ Tông Phát đậu Hoàng giáp, nhưng vua Thiệu Trị duyệt quyển thấy có chữ “thiện” nghĩa là “ăn”, chê là có mùi tanh nên đánh tụt xuống đệ tam giáp Tiến sĩ.
Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Đỗ Tông Phát được triều đình bổ nhiệm làm Hoan Châu đốc học, sau đó, hai lần làm Quốc tử giám Tư nghiệp ở kinh đô Phú Xuân – Huế, rồi đảm nhiệm chức Thương biện, phòng giữ bờ biển Sơn Nam Hạ (gồm cả bờ biển Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình ngày nay) rồi Dinh điền Phó sứ (1866), Dinh điền Chánh sứ (1881).
Ngay khi nhậm chức Dinh Điền Phó sứ, Đỗ Tông Phát đã chiêu dụ 117 hộ dân đem theo thân quyến đắp đê triệt sông Hải Hậu (sông Múc, chi lưu của sông Ninh Cơ), biến vùng bãi lầy, sú vẹt, lau lách um tùm thành đồng lúa các xã Trùng Quang, Thanh Trà, Trung Phương, Quế Phương, Liên Phú, Doanh Châu lập thành tổng Quế Hải và các xã Văn Lý, Xương Điền, Kiên Chính, Hòa Định, Xuân Hà lập thành tổng Tân Khai.
Đến năm sau, 1867, công cuộc khai phá lại mở rộng thêm và lập nên ấp Hải Nhuận để sáp nhập vào tổng Quế Hải.
Năm 1881, Đỗ Tông Phát thấy đồng ruộng cói nhiều hơn lúa, thiếu nước ngọt nên ông cho đào sông Cát Giả để dẫn nước phù sa vào đồng ruộng tổng Ninh Nhất, tiếp tục công việc của Nguyễn Công Trứ trước đó.
Tiến sĩ Đỗ Tông Phát cùng với địa phương dành nhiều công sức cho việc đắp đê, đào sông “dẫn thủy nhập điền”, thau chua rửa mặn. Trong bài thơ “Đạo lũng xuân canh” (Đường cày mùa xuân) của Tiến sĩ đã miêu tả những khó khăn, vất vả của người nông dân trên vùng đất mới:
Biển mới nên nương đất chửa nhuần,
Thau chua rửa mặn mấy gian truân.
Đường cày xuân muộn sương vừa tưới,
Khoảnh ruộng bồi non cấy gặt dần.
Bò sớm đi cày sương điểm tóc,
Bừa chiều về đã khói chen chân.
Những mong thời tiết sao cho thuận,
Non thẳm đêm đêm ngắm bóng vần.
Trần Xuân Hảo dịch
(Theo Vũ Hồng Phong – Website Sở VH -TT và DL tỉnh Nam Định).
Năm Nhâm Ngọ (1882), Đỗ Tông Phát tâu vua Tự Đức cho phép đem ruộng nhượng điền (ruộng tư) của các xã lập thành ruộng sĩ hội (học điền) để giúp đỡ học trò có thêm điều kiện theo đuổi học hành.
Tổng kết sự nghiệp của Dinh điền Phó sứ - Dinh điền Chánh sứ Đỗ Tông Phát, soạn giả Đoàn Ngọc Phan viết tiếp:
“Bấy lâu nay, sách vở tài liệu về công cuộc khẩn hoang, đào sông, lấn biển giúp cho dân nghèo có ruộng cấy, cơm ăn, áo mặc, chúng ta thường chỉ thấy nhắc đến Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ và dường như ít ai biết về Dinh điền sứ Đỗ Tông Phát. Thật vậy, Dinh điền sứ Đỗ Tông Phát (1812-1893), đối với Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ, tuy là lớp kế tiếp nhưng tài học và sự nghiệp cống hiến cũng không phải là không xứng để đời”.
Đúng như vậy. Ở bất cứ chức vụ nào, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát cũng tận tâm, tận lực thể hiện tài năng “kinh bang tế thế” giúp đời. Ông là vị quan thanh liêm, “thượng chí quân, hạ trạch dân”, đặt việc công ích vì dân vì nước lên trên hết.
Tiến sĩ Đỗ Tông Phát là người con chí hiếu. Tác giả Đoàn Ngọc Phan trên báo Sài Gòn giải phóng xuân Bính Tý (1996) đã đăng bài “Ông Tiến sĩ giặt áo cho mẹ”:
“Theo quan niệm phong kiến xưa, giặt váy là một công việc không nên mỗi lúc nói công khai và đôi khi còn hàm ý một sự khinh miệt bôi bác.
Thế nhưng dưới triều Nguyễn, ở vùng Sơn Nam Hạ có một vị đại khoa đồng thời là một đường quan, tuy nổi tiếng về chính tích, về thơ văn sáng tác, song được truyền tụng, được ngợi ca thì lại là cái chuyện giặt váy. Nhân vật đó chính quán tại xã Quần Anh Hạ, huyện Chân Ninh, tỉnh Nam Định, nay thuộc địa phận xã Hải Bắc. huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Hà.
… “Là người con chí hiếu, khởi đầu được bổ làm quan ở xa, dù lương bổng ít ỏi, Đỗ Tông Phát vẫn dành dụm để hằng tháng gửi về nuôi mẹ. Tới thời gian được bổ làm Thương biện, sau đó là Dinh điền Phó sứ, tồi Chánh sứ, nhiệm sở gần nhà, Đỗ Tông Phát đối với mẹ càng dốc lòng phụng dưỡng.
Tuy quyền cao chức trọng và tuy không thiếu gì người để sai khiến, nhưng lúc rảnh việc quan, ông về nhà, tự tay bưng cơm, sắc thuốc, tắm giặt cho mẹ, lúc ấy bà cụ đã ngoài chín mươi.
Một hôm có ông bạn vốn là đồng song, lại cũng là chỗ đồng liêu, ghé chơi thăm nhà quan Dinh điền sứ, tình cờ trông thấy tận mắt: ông Đỗ Tông Phát đang tự tay giặt váy, áo cho mẹ.
Quá sức cảm phục, ông bạn bèn làm ngay bốn câu thơ:
Đại tai Đỗ Tiến sĩ
Thân vị dịch thân thường
Thân dục ngô thân khiết
Ngô thân uế diệc phương!
Tạm dịch:
Quý thay quan Nghè Đỗ
Váy mẹ, giặt không gờm
Bởi mong mẹ được sạch
Tuy dù bẩn, mà thơm!
Trên một thế kỷ đã trôi qua, nhưng ở mấy xã Hải Trung, Hải Bắc, Hải Phương v.v… hiện nay, bốn câu thơ trên đây vẫn được nhiều bậc thức giả lão thành ngâm ngợi.
Tiến sĩ Đỗ Tông Phát là người suốt đời tôn kính thầy. Ông tâm niệm: sinh ra ta là cha mẹ; dạy dỗ ta nên người là thầy. Suốt đời Đỗ Tiến sĩ ghi nhớ ơn nghĩa thầy trò với Tiến sĩ Ngô Thế Vinh. Khi cụ Nghè Ngô Thế Vinh tuổi cao, rời Quần Anh về quê Bái Dương, Đỗ Tông Phát nghĩ đến việc phụng dưỡng thầy. Ông đã gả con gái mình cho con trai thầy, hàm ý để con thay mình chăm sóc thầy được chu toàn, ông mới yên tâm.
Về giáo dục, khi về hưu, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát mở trường dạy học. Học trò của ông nhiều người hiển đạt.
Công trình trước tác của Tiến sĩ Đỗ Tông Phát để lại gồm có:
Khuê phạm băng kinh (giáo khoa dành cho nữ giới).
Hiếu thuận ước ngữ ( giáo khoa danh cho nam giới).
Thủy kính lục (thơ và văn xuôi).
Long Châu thập bát vịnh (thơ).
Hàn văn thi cẩm thảo (thơ, nhạc).
Những tác phẩm này hiện vẫn còn lưu trữ trong tủ sách một số gia đình ở địa phương Quần Anh.
Trong cuốn sách “Tác giả thơ văn Hán Nôm Hải Hậu”, soạn giả Đoàn Ngọc Phan chọn in 2 bài thơ của Đỗ Quốc Lão (Tông Phát):
Bài thơ chữ Hán: Huấn tử (Khuyên con)
Phiên âm:
HUẤN TỬ
Giới nhĩ hưu tham tửu dữ hoa,
Tham hoa dữ tửu tiện vong gia.
Đa nhân tửu túy, hoa tâm động,
Tự thị hoa mê, tửu tính tà.
Tửu hậu, hoa tàn tình bất yếm,
Hoa tiền, chước tửu hướng vưu ca.
Tửu tàn, hoa tạ, hoàng kim tận
Hoa bất lưu nhân, tửu bất xa.
Đoàn Ngọc Phan sưu tầm
Dịch thơ:
Khuyên con
Con đừng tham rượu với tham hoa,
Tham rượu, tham hoa ấy mất nhà.
Thường bởi rượu say, hoa quyến rũ,
Chỉ vì hoa đẹp, rượu khề khà.
Rượu vào thêm gợi tình hoa thắm,
Hoa nở càng vui chén rượu ra.
Rượu hết, hoa tàn, tiền cạn túi,
Hoa đâu, người nhỉ, rượu đâu ta!
Trần Xuân Hảo dịch
Thơ Nôm họa bài Thăm chùa của Cử nhân Đỗ Bỉnh Thành (con trai tác giả):
THĂM CHÙA
Giang sơn riêng một cảnh Bồng hồ,
Cửa Phật thênh thang thử bước vô.
Gậy Tích vừa bay trên núi Thứu,
Chuông vàng đã động dưới thành Tô.
Chín tòa tháp báu ba tòa mốc,
Một lá thuyền từ, mấy lá xô.
Cũng tưởng đem mình vào cõi tĩnh,
Dở dang lăng miếu với giang hồ.
Đỗ Quốc Lão (Tông Phát)
Đặc biệt,“Văn bia mộ cụ Thủy tổ họ Trần (cụ Trần Vu)” tại phía đông chùa Phúc Lâm (chùa Lương), do Tiến sĩ Đỗ Tông Phát soạn năm 1873 là một “bi ký – sử ký” trước tác công phu, thể hiện bút lực, kiến văn và tâm đức của Đỗ Tiến sĩ tri ân công đức các bậc tiền hiền: cụ Thủy tổ họ Trần cùng với 3 cụ Thủy tổ họ Hoàng, họ Vũ , họ Phạm hiệp lực khởi đầu từ năm Thuận Thiên thứ 2, triều vua Lê Thái Tổ, 1429: tụ dân, khai phá miền bãi bể xa xôi hẻo lánh – khai sáng đất trời Quần Anh - Hải Hậu dành cho con cháu muôn đời sinh cơ lập nghiệp.
“Các Tổ đã biến đổi được lề thói quê kệch, gạn đục khơi trong, đắp đê dài Hồng Đức năm 1475 từ Hải Dương vào Thanh Hóa (đoạn qua Quần Anh), khai sâu sông Xả, sông Hoành. Lấn bể thành xã, ấp. Lập mốc giới, đắp đường xá. Khai thông mương ngòi, cải tạo mặt ruộng, đắp bờ ngang đỗi dọc”.
“Mới trong vòng mấy chục năm, đã trải khắp màu lá xanh sầm uất, trở thành đất đai làm ăn vui vẻ (lạc thổ). Người các nơi kéo đến nương tựa, sinh sống mỗi ngày một đông. Họ mang theo đến nhiều tập tục khác nhau, cần phải đưa họ vào lối sống có quy củ, có văn hóa tốt. Tức là mở mang văn hóa giáo dục, dạy dỗ điều luân thường, hiếu đễ, chăm chỉ học hành, chấn chỉnh lễ nghĩa, gắng gỏi kiệm cần, răn đe thói xa xỉ, bạo loạn, dâm ô…Những điều “Hương ước” dần dần loang sâu rộng ra xa, trở thành một vùng có mỹ tuc: “hiếu – hữu – thuận – hòa”.
“Năm Hồng Thuận thứ 3, Tân Vị (1511) có sổ Đinh, sổ Điền, có tên xã là Quần Anh. Đó là quang cảnh và huân lao của các bậc hiền triết là 4 vị Tổ khai sáng cùng 9 họ hợp lực lập nên xã Quần Anh”.
( Theo bản Sao lục văn bia của Trần Văn Thuyết
Bản dịch của Đoàn Ngọc Phan, ngày 20-7-1985)
Như vậy công cuộc dinh điền của Dinh điền sứ Đỗ Tông Phát cuối thế kỷ 19, mở mang khai khẩn vùng ven biển quê nhà Nam Định lập thêm 11 xã, hai tổng trên bản đồ huyện Hải Hậu, đã tiếp nối sự nghiệp mở cõi của tiền nhân khai sáng, để lại cho hậu thế hôm nay một tấm gương ngời sáng của một vị đại khoa tài đức song toàn, công huân lưu truyền muôn thuở.
Năm Quý Tỵ (1893), 5 năm sau ngày thành lập huyện Hải Hậu, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát qua đời trong nỗi tiếc thương vô hạn của nhân dân địa phương. Nhân dân hai tổng Tân Khai, Quế Hải đã suy tôn Tiến sĩ Đỗ Tông Phát là Thành hoàng làng, xây dựng đền thờ phụng. Tên tuổi và công sức của Tiến sĩ Đỗ Tông Phát còn sống mãi trong lòng nhân dân Hải Hậu.
Chúng tôi được biết, trong thời gian tới, khu lưu niệm danh nhân Đỗ Tông Phát đã có trong dự định xây dựng tôn tạo khang trang của Đỗ đại tộc cùng chủ trương của Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu. Đây là công trình văn hóa tôn vinh danh nhân, thể hiện lòng biết ơn vị Tiến sĩ Dinh điền sứ trọn đời cống hiến tài đức mở cõi, tụ dân, xây dựng quê hương đất nước, góp công tạo lập nền nếp thuần phong mỹ tục sáng đẹp trên miền quê Hải Hậu văn hiến, anh hùng.
Hải Bắc, ngày 20 tháng 4 năm 2024 -
Thành phố Nam Định, ngày 20 tháng 5 năm 2025
P.T.T