Vũ Quốc Long
TÌNH NGƯỜI và ĐẠO SỐNG TRONG “SỰ ĐỜI’ của NGUYỄN ĐẠO VINH.
Đã lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thương con người, qua những vần thơ mộc mạc giản dị, rất gần gũi với cuộc sống đương đại. Đó là tập “Sự Đời” của Tú Ương.
Nhà thơ Tú Ương, nhà văn Nguyễn đạo Vinh đã dùng ngòi bút của mình để nói lên những mong ước, những khát khao của mỗi người dân, đồng thời anh cũng đã lột tả được phần nào những cái ác, cái xấu đã và đang diễn ra trong xã hội.
“Sự Dời” cho chúng ta thấy được phần nào sự bất công, sự phi lí, sự tha hóa, sự kệch cỡm quá mức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở một thời điểm nhất định.
Tiếp tục con đường của Tú Xương, Tú Mỡ, Tú Sót, Tú Sụn. Tú Ương Nguyễn Đạo Vinh đã tạo nên dòng thơ hài hước, dí dỏm mới, trong thi đàn văn học Việt Nam.
Theo tiếng Việt, ương là chưa thật chin. Nhưng từ ương cũng có thể gắn với tính cách của một người nào đó. Họ chỉ hành động theo đúng lương tâm và lẽ phải. Họ không a dua, xu nịnh theo đám đông, họ không chịu sự ràng buộc, sự sắp đặt của bất cứ ai, cho dù người đó có quyền lực lớn đến mức nào. Họ sẵn sàng đón nhận và bất chấp mọi hiểm nguy để kiên quyết đấu tranh, nhằm tống khứ cái ác, cái xấu ra khỏi đời sống xã hội. Đem lại cái đẹp, cái ấm no, bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân.
Ngoài đời Tú Ương là một nông dân thuần phác, anh là một người hiền lành trung thực và có phần nhút nhát. Có lẽ, đây cũng là bản chất của đại bộ phận những người dân quê anh.
Không theo thói xu thời, nịnh thế tràn lan ngoài đời. Thơ của Nguyễn Đạo Vinh lại có chút, ngang ngạnh, có phần hơi ngông, bởi Ương là thế! Cái Tên Tú Ương anh tự đặt cho mình, đã phần nào nói lên được khí chất của anh.
“Độc giả hỏi sao nhận Tú Ương/Vì mình là chắt nội Tế Xương/Và còn điều nữa xin nói khẽ/Xã hội giờ sao lắm nhiễu nhương” (Ương)
***
“Sự đời” là việc đời, là tiếng gào thét về sự thật cuộc đời, nhưng dưới mỗi dòng thơ là nỗi niềm tâm sự riêng của người thi sĩ với cuộc sống. Song tế nhị lắm, Nguyễn Đạo Vinh lấy một câu ca dao cổ trong bài “Sáng giăng em ngỡ tối giời” làm đề từ cho tác phẩm: “Sự đời như cái lá đa/Đen như mõm chó...” Và tế nhị hơn nữa, Nguyễn Đạo Vinh không chửi toạc “Chém cha sự đời”. Tuy vậy, đọc về sự đen bạc của cuộc đời trong tác phẩm, chúng ta mới thấy… đúng, nhà thơ đã đúng! Thơ là gợi. Nói toạc thì còn gì là thơ nữa?
“Sự đời” cũng lấy câu nói của Nguyễn Trường Tộ, một danh sĩ, một nhà cải cách xã hội nổi tiếng Việt Nam ở thế kỷ 19 làm đề từ: “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Bởi vậy chúng ta chẳng lạ gì Sự đời nói đúng, nói thẳng, nói thật, nói hết việc đời. Nguyễn Đạo Vinh là một người nhân nghĩa! Sự đời là tập thơ dốc lòng nói hết sự thật ngoài đời, cùng sự thật trong tâm cảm!
Nguyễn Đạo Vinh, tác giả của bộ tiểu thuyết “Làng Cò” dài ngót 900 trang đã cười đời rồi nhạo mình bằng mấy vần thơ: “Vọc vạch vài chữ i tờ/Đem ra ghép lại thành thơ giải sầu…”
Toàn bộ Sự đời gồm ba phần: Ngẫu hứng, Trăn trở và Nỗi lòng. Đó là sự phân chia rất tương đối, vì về logic tất cả cũng đều là Sự đời cả. Ngẫu hứng mà nói niềm Trăn trở, từ Ngẫu hứng mà nói Nỗi lòng, trong Nỗi lòng là niềm Trăn trở... Trong mỗi phần nọ đều có phần kia!
Phần 1 - Ngẫu hứng là cảm hứng tự nhiên bột phát viết thành thơ. Chạy ù một vòng.
Lục thập hoa giáp, Nguyễn Đạo Vinh thấy “Nhanh nhỉ”: “Mới đấy mà đã ngoại sáu mươi/Vừa dứt oe oe, dở tiếng cười/Tóc chớm pha sương, người đã tọp/Mặc kệ thằng Đời, ta cứ tươi!”
Ngẫu hứng, Nguyễn Đạo Vinh thấy đời thật “dớ dẩn” khi đi lo chuyện thiên hạ. Nhưng lo chuyện thiên hạ thì sao lại “dớ dẩn”. Ấy là vì cái hậu quả của nó là hậu họa. Hậu họa sao? “Nó vu nó diệt cho mày chết”. Nó là ai, nó là thế lực nào, nó có sức mạnh gì mà ghê gớm đến thế? Nguyễn Đạo Vinh gợi thế là đủ hiểu!
Sự đời của Tú Ương không thuần túy và giản đơn phơi bày mặt trái của xã hội. Trong thơ anh có cả cái thường nhật, lam làm, chịu thương, chịu khó, đó là bản chất của người nông dân, được thể hiện qua các bài: (Ngắm ao buổi sớm, Nhặt nhạnh, Vượt khó…)
Thơ Nguyễn Đạo Vinh là tiếng lòng anh “Trăn trở” với đời”: “Biết mình phận mỏng thân hèn/ Cho nên đâu dám cựa kèn với ai/ Ngày ngày cứ gánh trên vai/ Hai bồ lo nghĩ thức dài năm canh” Phải là một thi nhân thật sự nặng lòng nhân ái, mới có thể ngày quên ăn, đêm quên ngủ để gánh nỗi lo đời nặng nhọc như thế chứ?
Phần 2 - tập thơ có tiêu đề “Trăn trở”.
Trăn trở là nỗi lòng người thi sĩ với đời. Như cách nói của Chu Văn An, “Người thức giả phải biết nói lên sự thật cho muôn dân được ấm no, thiên hạ được thái bình và triều đình được vững mạnh”.
Trong thơ Nguyễn Đạo Vinh, như có hình bóng một thế lực hắc ám đã “Đớp” hết phần ngon, hút cạn máu dân nhưng vẫn lên mặt “Thanh liêm” và lên giọng dạy đời về nhân cách, đạo lý làm người. Các ông quan thanh liêm vì họ không nhận đút lót, hối lộ bao giờ. “Ông bảo mọi người giữ thanh danh/Phải liêm, phải chính, phải trung thành/Cứ mặc vợ con nhận của đút/Còn ông vẫn sạch, chẳng hôi tanh” (Thanh liêm).
Nguyễn Đạo Vinh vạch mặt lũ chuột bọ tranh cướp nhau chiếc ghế quan trường. Chúng mua danh cả bằng Tiến sỹ để củng cố ghế ngồi. Đối với chúng, tấm bằng Tiến sỹ chỉ là đầu tư “khiêm tốn”(?).
Quan chức thời nay ăn mọi thứ, như Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói: “Họ ăn không từ thứ gì!” nhưng thứ họ ăn nhiều nhất là đất. Đất quan lấy được dân gọi chệch thành đất “Lây ống”.
Nguyễn Đạo Vinh phản ánh sự thay đổi số phận con người ngày nay như một cuộc đổi ngôi danh phận: “Xưa kia đầy tớ quét nhà/Giờ đây đầy tớ là cha dân thường/Nó khoét nó đục tận xương/Lúc sống, lúc đã lên đường quy tiên”.
Những kẻ nhân danh cha mẹ dân ấy, đục khoét người dân đến tận xương tủy, cả lúc sống lẫn lúc đã chết. Thơ Nguyễn Đạo Vinh khiến người ta nhớ đến, lũ kền kền mafia Đường Nhuệ ăn chặn cả tiền hỏa thiêu xác chết ở Thái Bình gần đây.
Một tình trạng rất nhức nhối ở ta là cái chưa cần, hoặc không cần thì làm rõ lớn, rõ to thành ra Thừa, tiêu tốn biết bao công sức và tiền bac của nhân dân. Cái rất cần thì không làm, không mua sắm thành ra thiếu. “Chùa nhiều -Tượng to nhất Đông Dương/Bệnh viện thiếu máy móc, thiếu giường/ Trường học thiếu sân chơi thầy rởm/Thế mà vẫn bẻm mép phô trương”. Tượng ở đây không chỉ là những bức tượng ở trong các ngôi đình, ngôi chùa mà nó phản ánh tới chuyện tỉnh này, tỉnh nọ đua nhau xây các tượng đài rõ to, gây lãng phí quá lớn. (Thừa - thiếu).
Xã hội trong thơ Nguyễn Đạo Vinh, thôi thì đủ chuyện lố lăng: Đú đởn chỉnh xương, căng da, bơm vú, bơm mông… Tí tởn đi chùa cầu lộc, cầu danh, cầu may, cầu thăng quan tiến chức. Nguyễn Đạo Vinh ghét sự luồn cúi “Thì thà thì thụt” để leo lên ghế cao.
Việc làm trong sạch bộ máy chính quyền, bộ máy Đảng theo đường lối của Đảng là mong muốn cháy bỏng của người dân hiện nay. Người dân muốn nhanh chóng, khẩn trương, nhưng hình như việc nói và làm của chính quyền còn chưa thống nhất: “Họ bảo phải làm sạch làm trong/Túc tắc, nhỏ giọt, tong, tong, tong/Liệu bao năm nữa hết dơ bẩn/Môi trường xã hội trở nên trong” (Sạch trong).
Một tình trạng đáng quan ngại đang trở thành quán tính, thành thói quen trong xã hội: người ngay sợ kẻ gian, người đúng sợ kẻ sai, chân lý sợ phi lý. “Cứ cái đà này thật là gay/Thằng gian trộ nạt đánh người ngay” Nhà thơ lo lắng “Chẳng biết bao giờ đến thời ấy”, cái thời công lý được lập lại (Bao giờ).
Thơ Nguyễn Đạo Vinh là tiếng nói ý Đảng, lòng dân. Anh mạnh mẽ “chửi” những kẻ quan tham, chỉ chăm lo cho việc hút, đớp, xây dựng lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi, họ không biết dơ khi vơ vét, ăn bẩn vô liêm sỉ. “Tay vỗ ào ào miệng tung hô/Vớ vẩn tào lao thật xô bồ/Vun vén vơ vào lợi ích nhóm/Tham lam vụ lợi chẳng biết dơ”, (Xô bồ). “Cái liêm cái sỉ để ở đâu?”(Liêm sỉ).
Vừa làm quan vừa làm bảo kê, bảo kê được đồng nghĩa với một hàng quan, cho nên quan – bảo kê là quan kép. Đó là cách nhìn của Nguyễn Đạo Vinh về một bộ phận không nhỏ, các quan chức trong chính trường hiện nay, (Quan kép).
Chống tham nhũng tiêu cực là mục tiêu lớn của Đảng, Nhà nước do Tổng bí thư, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng – “Người đốt lò vĩ đại” phát động để thay đổi nền Hành chính yếu kém hiện nay. Từ nhiệm vụ quản trị hành chính, họ tự biến chất thành “Hành là chính”. Muốn thay đổi điểu này, theo Nguyễn Đạo Vinh, phải diệt cho hết bọn quan tham:
Hành vi xấc lấc bọn tham quan
Là những bức xúc dân phàn nàn
Chính nó đã đẩy lùi xã hội
Phải diệt cho hết bọn quan tham
Ba chữ “Hành là chính” được Nguyễn Đạo Vinh lấy làm chữ đầu của ba câu thơ, rất nghệ thuật! Ông chửi cái sự “Ăn bẩn” của một số quan chức địa phương như báo chí đã nêu. Họ đã dùng quyền lực của mình, bắt dân đóng góp khoản nọ, khoản kia, rồi họ bớt xén cả tiền công đức của đình, của chùa để đi du lịch, khiến người dân vô cùng bức xúc, phẫn nộ. Bài “Ăn” là lời nguyền rủa của nhân dân dành cho bọn vô nhân tính đó: “Ăn vào rồi lại tống ra/Những đứa ăn bẩn ắt là chết non” (Ăn)
Cùng sử dụng thủ pháp tách từ, ghép ý, bài thơ “Sống chết mặc bay - tiền thầy bỏ túi” là một bài thơ hay.
Sống tham lam người đời chửi rủa
Chết đi rồi tiếng xấu còn đeo
Mặc cho thiên hạ gieo neo
Bay là lũ khốn làm nghèo quốc gia..
* * *
Tiền hô hậu ủng thật oách ghê
Thầy giờ cũng nốc, liếm lòi mề
Bỏ mặc dân đen ai cùng oán
Túi tiền vàng nặng mới hả hê.
Cuộc vận động Hai không của ngành Giáo dục được nhân dân hưởng ứng, chờ đợi hết sức kiên nhẫn. Nhưng rốt cục, dường như đó là cuộc vận động “đánh trống bỏ dùi”.
Bệnh thành tích ngày càng nặng. Nạn tiêu cực ngày càng tăng. Chống “tiêu cực” thì: Bao giờ “tiêu” hết “cực” đây? Phép chơi chữ được Nguyễn Đạo Vinh sử dụng thật thú vị.
Gạn đục khơi trong là một kinh nghiệm sống quý báu của dân ta. Nguyên lý của gạn đục khơi trong là chọn lọc loại bỏ cái xấu, cái không hay, giữ lại và phát huy cái hay, cái tốt, cái đẹp. Nhưng buồn thay:
Gạn đi, gạn lại mãi chả trong
Đục nước béo cò dân long đong
Khơi lên để bảo tao làm đấy
“Chong” đèn nghiên cứu mãi chửa xong
Của người phúc ta là một “nét” tính cách nhà quan. Của người là của dân. Phúc ta là phúc quan (lợi quan). Dân góp tiền để xây cầu. Quan chiếm đoạt tiền đó để “bắc cầu” thăng tiến (Của người phúc ta).
Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” là tuyên ngôn của Giáo dục Việt Nam từ nhiều năm nay. Nhưng nhìn vào giáo dục là thấy thất bại của tuyên ngôn này. Học sinh cư xử không biết lễ, giao tiếp không biết văn. Cuộc vận động Hai không cùa ngành giáo dục được Nguyễn Đạo Vinh rất quan tâm. Vì dạy con trẻ như thế nào thì tương lai đất nước sẽ như thế đó. Lòng dũng cảm của con trẻ theo 5 điều Bác Hồ dạy đã bị bóp chết từ trứng nước và ở ngay trong nhà trường, bởi những thầy cô thiếu lương tâm, đạo đức. (Dũng cảm)
Bài thơ Tham thì thâm là lời cảnh tỉnh quan chức về hậu vận cuộc tham là tù tội, quyền không còn, tiền cũng hết.
Trong thơ Nguyễn Đạo Vinh, cái giả bây giờ không chỗ nào không có. Khủng hoảng lòng tin đã vô cùng nghiêm trọng.
Là một nhà văn, Nguyễn Đạo Vinh tỏ ra là một thi sỹ có óc quan sát và khái quát cao.
Hành trình của một quan tham, đã khái quát cả “quá trình” quan chức của nhà quan và đặc tả bằng hàng loạt tập hợp từ bắt đầu bằng chữ “V”
Đầu nhiệm kỳ: Vui vẻ, Vồn vã, Vồ vập.
Giữa nhiệm kỳ: Vênh váo. Vòi vĩnh, Vun vén, Vụn vặt.
Cuối nhiệm kỳ: Vội vàng, Vơ vét, Về vườn, Vén váy, Vớ vẩn.
Mỗi cặp từ ghép đó là một nội hàm rất phong phú và thú vị, khó có ai viết được một bài thơ hay có sức bao quát kiểu độc âm như thế.
Nguyễn Đạo Vinh ghét lối nói một đường, làm một nẻo. Hứa với dân, rồi không thực hiện lời hứa. Bài thơ “Đi đôi” là bài học trị dân đối với quan chức. Phẫn uất tới cao trào nhà thơ đã viết: “ Đừng để thiên hạ họ vạch vôi”. Bài Ác giả ác báo là những lời nguyền rủa của nhân dân với lũ quan tham, ác độc.
Ác thì chẳng ai muốn gần đâu
Giả nhân giả nghĩa, cốt vượt cầu
Ác mộng suốt đời đeo bám đuổi
Báo ứng ngay thôi chẳng phải lâu
Nguyên Đạo Vinh khuyên mọi người nên “Ở hiền gặp lành”, nếu tham nhũng thì kết cục cũng lại “Của thiên trả địa” mà thôi. Ác giả ác báo. Ở hiền gặp lành, Của thiên trả địa… là loạt bài chung thủ pháp lấy chữ đầu câu thơ ghép thành tên bài thơ theo lối chơi chữ thơ ghép đầu câu. Có vẻ như đây là một thế mạnh của Nguyễn Đạo Vinh.
Ngày xưa người dân gặp bất công thường mong có “Đèn giời” soi xét. Nhưng bây giờ thì không ai còn tin có “Đèn giời” nữa. Dân chỉ còn biết bất lực thở than.
Nguyễn Đạo Vinh gọi quan tham, nhũng nhiễu, moi tiền dân là lũ Đầu trâu mặt ngựa. “Sao giờ lắm mặt ngựa đầu trâu/Chả biết nó sinh ra từ đâu?...” Xã hội đảo điên đến mức Diêm vương, Hà Bá cũng bị ăn đòn, thì kỷ cương phép nước sẽ như thế nào đây? (Diêm Vương kể chuyện).
Mối nguy cơ hiện hữu bởi sự câu kết giữa quan tham và bầy giặc phá hoại khiến Luật pháp bị vô hiệu hóa. “Luật nước cũng bó tay xin chịu,/ Bởi tuồng gian lận lũ mọt sâu”.
Nguyễn Đạo Vinh lên án sự nhũng nhiễu khiến người dân không thể hành “thiện” được nữa. Đất nước nghèo nàn, người dân cùng khổ, tiền bạc thì ‘thun thút” chảy vào túi quan.
Trong thơ Nguyễn Đạo Vinh, người dân với lãnh đạo phải như cá với nước. Không có nước thì cá chết, “Thịnh suy thành bại ở dân cả” đúng như triết lý người xưa: “Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước”, thật là sâu sắc!
Cuộc chiến chống tham nhũng do Đảng ta phát động được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Đó là cuộc chiến không có vùng cấm, không có điểm dừng. Nhưng người dân còn mong muốn phát huy hơn nữa sức mạnh cả cộng đồng thì mới sớm thành công:
Bài thơ “Ngũ ngôn vần ạch” là một bài thơ hay và thú vị: “Việc làm phải trong sạch/Thu chi phải minh bạch/ Tuyển người phải sát hạch/Gian lận là phải vạch! /Chống xây đừng cọc cạch/ Duy trì cho liền mạch/ Đừng trơ như đá gạch/ Chớ sống như lươn trạch/Tham quá thì phải “tạch”.
“Ngũ ngôn vần ạch” là bài thơ độc vận đặc sắc, thể hiện tài hoa của thi sĩ trong việc phản ánh mong muốn khát vọng dân chủ, tự do, sự minh bạch của nhân dân, đặc biệt là ước nguyện tiêu diệt tham nhũng. Sức chịu đựng của người dân là hữu hạn. Bởi vậy, “Tham quá thì phải “tạch”. “Tạch” là bắn bỏ, rút kinh nghiệm mãi không tin!
Bằng thơ ca, Nguyễn Đạo Vinh lên án “Thời buổi lên ngôi của đồng tiền”. Có tiền cú cũng thành tiên. Hậu quả của việc xã hội chạy theo đồng tiền là đạo đức xói mòn“lương tâm đảo điên”, “Bon chen chụp giật”, “Bất chấp đúng sai”… Người ta xoay bòn lẫn nhau nhưng chi tiêu vô bổ. Chim Ri bòn Sáo Sậu, Sáo Sậu bòn Sáo Đen, Sáo Đen bòn Tu Hú. Trong thế giới bóng tối, trong cái “xã hội đen” ấy, bạo lực và giết chóc hết sức tàn bạo.
Phần 3 - Nỗi lòng được viết dưới tiêu đề - một câu nói nổi tiếng của PÊ–GUY: “Kẻ nào không lớn tiếng gào lên sự thật khi mình hiểu rõ sự thật… là kẻ đó đồng lõa với bọn giả mạo, bọn dối trá, bọn lừa bịp”.
Bài thơ Hỡi ai nói toạc ra cái sự biến chất của quan chức. “Cha mẹ sinh ra đủ hình hài” nhưng mới lên quan độ dăm tháng thì hình hài cha mẹ sinh ra không còn nguyên vẹn nữa. Quan trở nên nghễnh ngãng, mù mờ, câm điếc, nói năng nhăng nhít… Và rồi, nhà thơ nhận ra, họ không phải là người nữa, họ chỉ là lũ ngợm: “Xưa nay vẫn nghĩ họ là Người/Giờ thì rõ mặt giống đười ươi/Hám thịt, hám xôi - Phường chó chết/Gieo nhân gặt quả lẽ ở đời”. Nguyễn Đạo Vinh mong các quan có khí chất của những hiệp sĩ đường phố, biết vì nghĩa cả, cứu dân lành: “Hỡi những ông kia những bà này/Hãy nhìn các Hiệp Sĩ ra tay/Giữ gìn trật tự trên đường phố/Họ đã vì ai hả chúng bay?” (Hiệp sĩ).
Nguyễn Đạo Vinh lấy gương Chu Văn An, người đã soạn và dâng lên vua Trần Dụ Tông “Thất trảm sớ” để đề nghị chém 7 người mà ông cho là nịnh thần: “Lịch sử xa xưa có cụ Chu/Nhìn rõ tâm địa bọn dốt ngu/Dâng tấu lên Vua “Thất trảm sớ”/Người đời ca ngợi mãi thiên thu”
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đạo Vinh khá tinh lọc, kỹ lưỡng, nhưng đôi khi cũng rất mộc mạc, cốt lấy vui và hướng tới mục tiêu cải biến, làm đẹp cuộc đời: “Bình thường tôi chả viết đâu/ Bỗng dưng lại bị ấm đầu viết thôi/ Viết cho thiên hạ nở cười/Viết cho quả bưởi của tôi thêm vàng/Viết cho vui xóm vui làng/Viết cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn”… (Câu mình câu ta).
Bài Thi Sỹ là tâm sự chân tình của người cầm bút Nguyễn Đạo Vinh. Anh không hám danh thi sĩ. “Tôi đây vốn tính ương gàn/Chẳng dám mơ sỹ chẳng màng tới thi”. Đã có một thời gian dài, anh viết xong lại xé. “Viết lách” là một sự khó của người cầm bút.
Và rồi, chính cuộc sống giúp anh nhận ra những vấn đề bản chất của sáng tạo văn học: Viết là để thỏa mãn nhu cầu giãi bày, thể hiện nhận thức, quan điểm của cá nhân người nghệ sỹ, và qua đó thực hiện chức năng cải tạo cuộc đời, cải tạo con người.
***
“Sự Đời” dưới hình thức một tập thơ trào lộng, là một tập thơ trữ tình thống thiết. Tập thơ là tâm thơ của một người yêu cuộc sống, yêu đời, yêu người, cùng rât nhiều trăn trở yêu thương, phẫn uất đắng cay, rất nhiều tâm huyết ước vọng, rất nhiều hoài bão. Ngòi bút Nguyễn Đạo Vinh là một ngòi bút chiến đấu đầy bản lĩnh. Đọc thơ anh, tôi luôn nghĩ đến hai câu tuyên ngôn sứ mệnh thơ ca của Đồ Chiểu, rất đúng với hồn thơ anh: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Ngày 01- 1 - 2021
V.Q.L