Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân

NHỮNG VẦN THƠ TRI ÂN

Nguyễn Trác
 
NHỮNG VẦN THƠ TRI ÂN        
 
   Chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm, Tổ quốc đã thống nhất, những người lính trở về đã nên ông nên bà , những đứa trẻ sinh ra từ lâu đã không còn biết đến đạn bom , nhiều kỉ niệm tưởng đã quên .Nhưng, với rất nhiều người thì hình như chiến tranh vẫn chưa qua .Nó còn nằm đâu đó trong kí ức, trong nước mắt mẹ già hay trong giây phút thẫn thờ bất chợt của một quả phụ .
Sáng chủ nhật. Một buổi sáng thanh bình mát mẻ. Vừa qua cơn ốm , ngồi dậy tôi gặp ngay trên bàn bài báo “Ánh mắt làng Hồng “ của Xuân Thọ viết về một chứng nhân trong cuộc tàn sát hơn 500 thường dân của lính Mỹ ngày 16.3.1968  ở Sơn Tịnh Quảng Ngãi.Đọc xong ,tôi. không khỏi bàng hoàng.. Tội ác kẻ thù ta có thể tha thứ nhưng nỗi đau thì không thể nào quên. Tôi lững thững lên đê. Mặt sông phẳng lặng .Bỗng có chiếc xuồng máy phóng rất nhanh qua làm cồn lên từng đợt sóng lớn khiến mấy chiếc thuyền nhỏ và cả một chiếc xà lan chở cát phải chòng chành
 
Đò lên Thạch Hãn xin  chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
 
Hai câu  trong bài thơ nổi tiếng “ Đò lên Thạch Hãn “ của Lê Bá Dương năm nào lại vang lên trong tôi niềm đau xót chiến tranh. Sao tôi lại chợt nhớ tới bốn câu thơ ấy nhỉ .Không chỉ dưới đáy sông Thạch Hãn, trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, dòng sông nào trên đất nước ta không có những người con hy sinh nằm lại. Và sông Hồng quê tôi cũng vậy. Bao người lính ,bao chiến sĩ tự vệ sao vuông cũng từng ngã xuống .
Lại sắp đến 27.7, ngày Thương binh liệt sĩ và năm nay là năm kỉ niệm lần thứ 70.  
 
Hôm qua còn theo anh  
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ
……………………………
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính  chặt
 
“Viếng bạn” của Hoàng Lộc được xem như bài thơ đầu tiên và hay nhất viết về tình bạn, tình đồng đội mà thế hệ chúng tôi đã thuộc từ những năm đi học đến sau này ra trận. Bài thơ thật kiệm lời , xúc động ,nhưng cũng thật sâu sắc và lớn lao . Rồi, khi bước vào tuổi yêu đương bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao lại khiến bao chàng trai không cầm lòng được:
 dpp_0004
Bảy năm về trước, em mười bảy 
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng 
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa 
Bữa thì em tới, bữa anh sang 

Lối ta đi giữa hai sườn núi 
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi 
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế 
Núi chồng núi vợ đứng song đôi! 

Chàng trai ấy ra lính và một chiều hành quân qua làng :
 
Mới tới đầu ao, tin sét đánh 
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông 

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi 
Hàng thông bờ cỏ con đường quen. 
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói 
Núi vẫn đôi mà anh mất em…

Do công việc vừa qua tôi được tham gia đọc một số thơ viết về đề tài Thương binh liệt sĩ . Đó là những trường ca “Con đường của những vì sao” của Nguyễn Trọng Tạo , “Nấm mộ và cây trầm “  của Nguyễn Đức Mậu ,”Tiếng bom và tiếng chuông chùa “ của Phạm Tiến Duật ,”Mẹ ,Đất nước và lưu dân “ của Trúc Phương  , “Khúc hát người Anh hùng” của Trần Đăng Khoa , “Ngã ba Đồng Lộc của Nguyễn Ngọc Phú “ v.v và rất nhiều bài thơ ngắn khác như  “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân , “ Phan Thiết có anh tôi “ của Hữu Thỉnh ….
“ Phan Thiết có anh tôi” là một bài thơ đặc biệt bởi nó hội tụ trong đó cả tình anh em ruột thịt ,tình quê hương ,tình yêu thiên nhiên và tình đồng đội. Đó là lời khóc nghẹn ngào của một người lính với anh trai liệt sĩ của mình :
 
Em đã qua những cơn sốt anh qua
Em đã gặp trận mưa rừng anh gặp
Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết
Em một mình đứng khóc ở sau xe
 
Cánh rừng kia, trận mạc còn kia
Vài bước nữa thì tới đường số Một
Vài bước nữa
Thế mà
Không thể khác
Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi ?
 
Đến Nghĩa trang Đồng Lộc tháng 7.1995 nhà thơ Vương Trọng - một người lính khác – lại thay lời các cô gái  hy sinh thỉnh cầu cuộc sống hôm nay . Lời thỉnh cầu ấy thật giản dị nhưng cũng thật xa xót  : 
            
Cần gì ư ? –Lời ai hỏi trong chiều
Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết
Hương chia đều trong hư ảo khói nhang
 
Bài thơ đã được dịch ra tiếng Anh và cả hai bản tiếng Việt  tiếng Anh đều đã được khắc vào bia đá dựng ở nghĩa trang Đồng Lộc.
Lê Đình Cánh , nhà thơ nhiều năm dạy học trong lực lượng TNXP Trường Sơn lại viết về một đám cưới tưởng tượng trong nghĩa trang liệt sĩ.
 
Lau trắng rừng đám cưới Trường Sơn
Đèn đom đóm lập lòe đưa dâu liệt sĩ
Người ngã xuống những ngày đánh Mỹ
Tự lo cho hạnh phúc của mình.
 
Thưng nghĩa trang riêng khu mộ gia đình
Là liệt sĩ cũng nên chồng nên vợ
Ở dưới ấy chắc nhiều đôi gặp gỡ
Hai cuộc đời hóa đá vào nhau
 
Không chỉ viết về những người đã khuất Lê Đình Cánh tâm sự :
“Tôi chú ý ca ngợi những người đã qua lửa đỏ chiến tranh trở về hậu phương, dũng cảm vươn lên, tự lo cho cuộc sống của mình, nhưng đôi khi mang cả sự cam chịu thân phận. Đấy là phẩm chất cao đẹp riêng của người Việt Nam cần ca ngợi cần tôn vinh “.
Một thế hệ các nhà thơ trẻ hơn trở về từ các đơn vị TNXP từ các chiến trường biên giới Tây Nam , biên giới phía bắc ,các trận chiến bảo vệ biển đảo là Nguyễn Hữu Qúy ,Nguyễn Minh Khiêm ,Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Hưng Hải ,Nguyễn Danh Tu…tham gia vào đội ngũ đông đảo những nhà thơ có nhiều sáng tác về đề tài này.
Nguyễn Minh Khiêm viết về mẹ Thứ ,Quảng Nam  -Mẹ Việt Nam anh hùng-
người đã có tổng cổng 9 người con và cháu hy sinh  , người đã được chọn làm nguyên mẫu cho nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng dựng bức tượng đá Bà mẹ Việt Nam-bằng những câu thơ đầy thành kính và  xúc động .Những câu thơ như nấc lên :
 
Lại một người con của mẹ không về
Lại người nữa
Lại thêm người nữa
 
Chiến tranh đi qua
Chín người con của mẹ không về !
 
Tóc bạc xòa ngang khung cửa
Thời gian vỡ tung ra
Trái tim bao nhiêu đứt gãy
Câu thơ con không thể nào hàn lại
Những nỗi đau
Chỉ xin làm một miếng trầu..
 
Anh đặt tên cho bài thơ là “Huyền thoại chiến tranh”. Người mẹ trong huyền thoại chiến tranh của Khiêm  đan xen giữa thực và ảo . Ảo bởi từ đống bã trầu mà mẹ bỏ ra bao đêm ngồi đợi con về ấy đã mọc lên một cây hoa bất tử  đỏ rực . Thực bởi cái cây hoa bất tử ấy chính là sự bất tử của người mẹ , sự bất tử của tình yêu thương của con người trước sự bạo tàn.
Nguyễn Hữu Qúy lại muốn ôm trùm và khái quát những vấn đề lớn về chiến tranh , về nhân sinh , về cái thiện và cái ác. Bằng sự trải nghiệm của người lính thơ anh có nhiều sáng tạo trên nền tảng cảm xúc vững chắc. Mạch thơ mang tính hồi tưởng sâu sắc và giàu tính triết lý..
Đây là giấc mơ của những người mẹ có con đã hi sinh ở chiến trường:
 
Những người lính trở về têm cho mẹ miếng trầu cay
giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu
những người lính trở về xòe tay trên bếp khói
giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm
những người lính trở về đánh rạ dọn rơm
giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng
những người lính trở về cười ngượng nghịu
giấc mơ người bật dậy tiếng oa oa…
 
“Tấm vé tàu Thống nhất dành cho cha “ hình thành từ câu chuyện thật qua sự sáng tạo tài hoa của tác giả đã trở nên một bài thơ độc đáo và ám ảnh :
 
Ngày cha ra trận
Giọt máu của người chưa bật khóc!
 
Mẹ lẻ loi
              vượt cạn
 đất phương Nam
                              cha
                                     ngã xuống miệt vườn
 
Bốn mươi năm sau
cha trở lại quê hương
trên con tàu Thống Nhất
chiếc ba lô từng theo cha đánh giặc
nay ấp iu cha trong cuộc trở về
…………………………………………..
Ngồi thay cha
                      trên ghế mềm
                                            là chiếc ba lô đựng hài cốt
 
   Nói tới cuộc kháng chiến chống Mỹ không thể không nói đến đường Trường Sơn. Con đường mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là “một kỳ công , kỳ tích ,kỳ quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sĩ và thanh niên xung phong làm nên “.Trên con đường ấy hơn 20 nghìn cán bộ chiến sĩ và TNXP đã vĩnh viễn nằm xuống ,hơn 30 vạn người khác bị thương ,chưa kể bao nhiêu mất mát hy sinh khác mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu ,trong đó có những mất mát không bao giờ có thể tìm lại. Trong số 20 nghìn người nằm xuống , 30 vạn người thương tật ấy có bao nhiêu người là phụ nữ  , trong số vô vàn những mất mát lớn lao ấy có bao nhiêu mất mát đàn bà ?
 “Chiến tranh trên gương mặt đàn bà” là trường ca Phạm Hồ Thu viết về những đóng góp , hy sinh vô bờ bến của những nữ TNXP trên con đường huyền thoại :
 
Ai còn nhớ chăng
Những người đàn bà sinh ra không phải để giáp mặt chiến tranh
Những người đàn bà sinh ra không phải
 Để đánh mìn ,cầm cuốc,cầm choòng ,cầm súng
Những người đàn bà sinh ra không phải
       Để làm cọc tiêu nơi chiến địa
Cũng không phải họ sinh ra để được tặng
                                               Danh hiệu Anh hùng
 
Người đàn bà muôn đời là liễu yếu ,đào tơ
Người đàn bà sinh ra để dịu hiền ,bé bỏng
Làn môi thắm dâng lời âu yếm
Bầu vú tròn mời gọi đắm say
Họ sinh ra sự sống ngày ngày…
 
 Những người đàn bà Việt Nam như mọi người đàn bà khác trên thế giới  sinh ra cho tình yêu , cho con cái , cho mái ấm gia đình. Nhưng giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ,và suốt hàng nghìn năm qua những người đàn bà Việt Nam ra trận như đàn ông và cũng đã ngã xuống như đàn ông để làm nên “ Dáng đứng Việt Nam “ :
 
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt 
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng 
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn 
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng
 
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ 
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường 
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: 
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. 
Tên Anh đã thành tên đất nước 
Ôi anh Giải phóng quân! 
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt 
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
                                                      
   Hơn 70 năm qua Đảng Nhà nước , Quân đội và Nhân ta đã làm hết sức mình để đưa những người hy sinh về với gia đình làng xóm , để bù đắp cho những người thương tật những người có công…nhưng vẫn còn sót lại và rải rác đâu đó trên khắp đất nước và cả ở bên ngoài biên giới những người hy sinh , những người từng tham gia chiến đấu ‘không một tấm hình, không một dòng địa chỉ” để lại lặng lẽ khuất vào xương máu, khuất vào nước mắt , khuất vào sông núi hay lặng yên dưới dòng nước chảy.
Trước khi khi kết thúc bài viết nhỏ này tôi muốn trở lại bài thơ Đò lên Thạch Hãn của Lê Bá Dương ở dạng nguyên văn ban đầu .Phải nói thật là tôi thích bản khởi thảo này hơn -và đồng tình với nhiều comen - nhất là câu cuối :
          
            Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
            Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
            Tan chợ chiều xuôi đò có vội
            Xin đừng khuấy đục nước dòng trong
 
    Làm gì thì làm nhưng “Xin đừng khuấy đục nước dòng trong”. Những mái chèo hãy nhẹ, những bán mua hãy nhẹ. Dưới đáy sông bạn tôi đang nằm. Dưới đáy sông những người lính năm xưa đang nghỉ. Hãy để các anh yên nghỉ với sự yên tĩnh và thanh thản của tâm hồn. Hãy để những dòng sông đừng bị vẩn đục vì bất cứ lý do gì .Dẫu hòa bình hôm nay là rất đẹp.
 
                                                                                          Long Biên 6.2017
 
                                                                                                       N.T
 
 
 
In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 18
Trong ngày: 132
Trong tuần: 1150
Lượt truy cập: 436701
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0855 890 003 
Email liên hệ: Nhà văn Cầm Sơn: soncam52@gmail.com 
- Nhà Lý luận Phê bình Vũ Nho:  vunho121@gmail.com 
 
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chi hội trưởng.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông
- Cố vấn: Nhà văn, nhà Lý luận Phê bình Văn học - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho.