(Đăng Văn nghệ Công an số 688
ngày 04/01/2024, trang 10)
NGUYỄN THỊ THIỆN
NHÀ VĂN NGUYỄN THỊ THIỆN
Phần I Ngọn đuốc soi đường: trình bày cơ sở lý luận có ý nghĩa nền tảng cho tác phẩm, thiên về lý thuyết. Qua mỗi bài viết, nhà văn phân tích rõ quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhận định: “Nhờ chính sách đầu tư khuyến khích cho phát triển VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam của Đảng, Nhà nước, VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng… xây dựng, phát triển toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình...” (trang 29, 30). Không chỉ chú ý về diện, nhà văn đi sâu vào điểm qua bài “Bản sắc văn hóa Tày nhìn từ sáng tác văn học song ngữ”. Tiểu luận đã khảo sát các sáng tác bằng tiếng Tày (Thổ) và tiếng Việt của các nhà thơ dân tộc tiêu biểu. Từ đó, có sự phát hiện: “Một điều dễ nhận thấy mẫu số chung trong những sáng tác của các nhà văn dân tộc Tày là sự vịn bám vào cuộc sống muôn màu của dân tộc mình, nhưng họ đã tìm được lối đi riêng, làm nên một phong cách riêng không nhòe lẫn” (trang 35). Bài viết còn cung cấp những thông tin đối sánh, rất tiện ích cho bạn đọc tra cứu và nêu lên “những niềm mong” chân thành: “Các cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách nâng cao dân trí để đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện quyền dùng tiếng nói, chữ viết giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình”. (trang 52)
Phần II Tác giả và tác phẩm với 14 bài viết nghiên cứu các tác giả, tác phẩm mang tính thực tiễn, thể hiện rõ chính kiến và cái nhìn công tâm. Đây là phần có giá trị lớn nhất với nhiều thông tin tư liệu xác thực, bổ ích. Nhà văn thoải mái bộc lộ ý kiến cùng cảm xúc của mình với những văn nghệ sĩ mà chị yêu mến. “Mình về mình có nhớ ta” (trang 57) là những dòng văn lai láng tình cảm, người viết tâm tình căn nguyên mình yêu thích văn hóa, văn học dân tộc thiểu số. Bài “Người cao hơn núi...” (trang 68), dành nhiều tình cảm với lãnh tụ Hồ Chí Minh và bản Di chúc của Người: “Di chúc ngắn gọn thể hiện đầy đủ tầm vóc, trí tuệ, phẩm chất của một vị lãnh tụ có tấm lòng bao dung nhân ái”. Viết về Bác Hồ, các văn nghệ sĩ luôn tràn trào cảm xúc tri ân. Tố Hữu với Bác ơi, Hải Như với Chúng cháu canh giấc Bác ngủ Bác Hồ ơi... Đặc biệt trường ca Bắc Pó có Cúng Hồ của nhà thơ Y Phương vô cùng xúc động bởi không chỉ con người mà cả thiên nhiên cũng tiếc thương Bác “Suối Lê nin òa lên nức nở” (trang 76). Tiếp nhận tác phẩm, rất thú vị khi đọc bài viết về chủ đề tình yêu trong trong thơ Y Phương “người nặng trái tim yêu thương”, có trang viết cảm xúc đạt tới độ thăng hoa:”Tình yêu nâng cánh bay”. “Thơ tình yêu là máu thịt làm nên văn nghiệp của ông, cho dù ông đã bước vào ngưỡng tuổi xưa nay hiếm. Tập “Vũ khúc Tày” gồm 100% bài thơ tình yêu, tình yêu không tuổi ngàn đời vẫn xanh... Thơ có thanh âm trong trẻo của giọt đàn, của vũ điệu nàng Hai, của câu hát
Hà Lều rất ngọt” (trang 82). Nét nổi bật trong thơ Y Phương là tôn vinh phụ nữ và cái đẹp, cây bút rất có ý thức trách nhiệm với nghề: “Anh quyết khai tử những xác chết của chữ nghĩa, bỏ đi những bản nháp không thương tiếc bởi những non bấy, nhạt nhòa” (trang 97).
Là một cán bộ dày công nghiên cứu văn hóa vùng cao, Bích Hồng dành tình cảm nồng nhiệt với những bản nhạc phim hay. Bài “Nguyễn Văn Thương và nhạc phim Vợ chồng A Phủ” (trang 99) cho thấy chị không chỉ có kiến thức sâu rộng về văn chương mà còn am tường về âm nhạc và điện ảnh. Với “Bài ca trên núi”, nhạc phẩm đã thổi hồn, góp phần quan trọng làm nên giá trị kinh điển của bộ phim. Nguyên nhân thành công bởi: “Tác giả xử lý rất tài tình chất liệu dân ca H’Mông, nói lên khát vọng trái tim của đôi trai gái yêu nhau”. Tiểu luận “Nông Viết Toại sáng tạo văn chương bằng tiếng Tày” (trang108) ghi nhận nhà thơ mang đến văn đàn Việt một tiếng thơ hồn nhiên, trong trẻo, đậm đà bản sắc dân tộc đã cùng các nhà văn: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Minh Châu… góp từng dòng suối trong trẻo của riêng mình hòa vào dòng đại trường giang văn đàn Việt. Bên cạnh đó, điểm nhấn của tập sách là bài “Chuyện tình Khau Vai” từ sân khấu đên tiểu thuyết” (trang 123). Tiểu luận nghiên cứu khá kỹ các sáng tác của nhà văn PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ qua hàng loạt vở kịch: “Chuyện tình Khau Vai” (2013), “Mai Hắc Đế” (2015), “Hừng Đông” (2016), “Hoa lửa Truông Bồn” (2018), “Huyền thoại Gò Rồng Ấp” (2019), “Ngàn năm mây trắng” (2019) làm sôi động sân khấu Việt từ 2013 đến nay. Bích Hồng có nhận xét qua những câu văn hình ảnh rất tươi mới: “Tôi có cảm nhận nguồn văn chương trong anh đã ủ lửa từ lâu, chỉ chờ thời gian là phun trào nham thạch” (trang126).
Tập tiểu luận còn nhiều bài viết khác: Bế Thành Long qua “Ngủ đi nhẹ cánh cò bay” (trang 139) tái hiện chân dung nhà thơ quê Cao Bằng. Bài “NSND Dương Liễu: Thanh âm mãi ngân vọng” khẳng định giọng ca trong trẻo miền sơn cước sẽ sống mãi (trang 149). “Cô gái Tày của miền Phịa Bjooc” (trang 157) làm rõ chất văn dịu dàng đằm thắm của nữ nhà văn Bùi Thị Như Lan. Tiểu phẩm “Nàng mê đắm trong bức tranh hoa cỏ” viết về Phạm Thị Phương Thảo (trang 170) với hàng loạt tác phẩm thơ giàu cảm xúc trước thiên nhiên và các cháu thiếu nhi, “Hà Lệ Diễm đồng hành với “Những đứa trẻ trong sương” (trang 184) giới thiệu, khẳng định giá trị của bộ phim tài liệu của cô gái Tày (31 tuổi), đoạt giải đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế tổ chức cuối tháng 11/2023. Điều đó cho thấy Bích Hồng có con mắt tinh tường, dự cảm đúng tài năng Hà Lệ Diễm. Bên cạnh đó là những bài viết về nhà văn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện, nhà thơ Cao Trần Nguyên (Quảng Ninh) (trang 204), nhà văn Nông Thị Ngọc Hòa (trang 222).
Tuy nhiên, người đọc nhận thấy ấn phẩm mới nghiên cứu, đánh giá về tác giả, tác phẩm vùng núi phía Bắc, chưa có bài viết, nhận xét nào về văn học dân tộc thiểu số khu vực miền Trung hay miền Nam. Tuy vậy, “Thồ tình yêu đến cuộc chợ phiên” vẫn là sự hội tụ tâm và tầm của một cây bút phê bình giàu bản lĩnh. Ở đó, nhà văn gửi gắm nhiều tâm huyết, trân trọng cùng sự đánh giá khách quan. Tập sách cho thấy Lê Thị Bích Hồng đã tự thể hiện một phong cách riêng rõ nét trong phê bình, nghiên cứu văn học.
Người gửi / điện thoại