NGUYỄN QUANG THUYÊN VỚI TRƯỜNG CA “LÀNG CỦA MUÔN ĐỜI”
Đọc “Làng của muôn đời” của Nguyễn Quang Thuyên, NXB Hội Nhà Văn, 2015
Làng ở Việt Nam là một đơn vị hành chính xã hội có từ bao đời. Làng gắn với quê thành ra làng quê với mái đình, cây đa, với lễ hội dân gian. Làng trở thành một yếu tố từ ghép với tất cả không gian, cảnh vật, con người : ao làng, đình làng, đường làng, cổng làng, đồng làng, giếng làng, người làng, dâu làng, rể làng, dân làng, lệ làng. Lệ làng chặt chẽ và nghiêm có khi còn hơn cả những luật lệ hành chính thời phong kiến đến nỗi “ Phép Vua thua lệ làng”. Chính vì LÀNG quan trọng như thế, nên nhà văn Ngô Tất Tố mới có phóng sự “Việc làng”, nhà văn Kim Lân mới có truyện ngắn “Làng”, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có tiểu thuyết “Đất làng”, nhà văn Ngô Ngọc Bội có tiểu thuyết “Ao làng”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn có truyện ngắn “ Chuyện làng Gành”, tiểu thuyết “Làng Cói Hạ”, nhà văn Lê Lựu có tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội”… Làng sẽ mãi mãi là một đề tài phong phú, mời gọi các nhà văn thử bút.
Tâm thức làng ăn sâu, lắng đọng trong mỗi tâm hồn con dân nước Việt, bởi vậy viết bản trường ca “Làng của muôn đời” là một việc làm có ý nghĩa thời sự và lâu dài. Có lẽ là người quan tâm đến lịch sử, hiểu lịch sử đất nước (Ngoài Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, tác giả còn là Hội viên hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) và hiểu vai trò của “làng” trong đời sống cộng đồng nên tác giả Nguyễn Quang Thuyên mới chọn trúng và đúng một đề tài hay như thế. Vấn đề là triển khai đề tài trong thể loại trường ca như thế nào thôi.
Trong lịch sử văn học dân tộc, chúng ta có những diễn ca lịch sử, những bài thơ dài, có những bản anh hùng ca của các dân tộc ít người Tây Nguyên, có những truyện thơ nôm khuyết danh và có tác giả… Nhưng nếu xét kĩ ra, trường ca như một thể loại văn học viết thì chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây, sau khi chúng ta được tiếp xúc với những trường ca dịch từ nước ngoài. Tuy vậy, trường ca cũng được rất nhiều nhà thơ dụng bút. Ngay tác giả Nguyễn Quang Thuyên, trước khi viết trường ca này, anh đã viết truyện thơ “Làng Nung của tôi” (2000), viết trường ca Thị trấn vùng đồi trong tập “Chiếc gương cuộc đời” (2001), “Những dấu chân huyền thoại” (2009), “Trường ca Khát vọng biển” ( 2013). Như vậy “Làng của muôn đời” được kế thừa nội dung, hình thức của truyện thơ và ba trường ca chứ không phải là tác phẩm đầu tay. Và dĩ nhiên, tác giả cũng được kế thừa kinh nghiệm của một loạt những trường ca thành công trong dòng chảy thi ca Việt những năm gần đây.
Làng, xét về không gian thì không lớn lắm. Làng nhỏ hơn xã, dân số không quá nhiều (dù có là làng nghề, hay là làng ven thị “bờ xôi ruộng mật” chăng nữa). Để khắc phục giới hạn về không gian Địa lí, tác giả đã khai thác không gian Lịch sử lâu đời của của làng mình. Các chương Gốc làng, Mẹ của ngày xưa, Bên đền Thánh Mẫu và chương mở đầu Đối thoại lặng im đã cho thấy làng Nung có một bề dày lịch sử “truyền ngôn”:
Dù làng làm nghề gốm nhưng cũng giống như bao làng quê khác, làng Nung là một làng nghèo “nối đời bám rễ vào sông/ bám vào chông chênh đói rét/ làng như con choi choi/ bập bềnh mặt nước”. Cái đói được thể hiện trong đận giáp hạt cả làng vào rừng:
Phải đương đầu với những ngày đói kém, giáp hạt, làng còn phải đương đầu với thiên tai, lũ lụt. Những câu thơ thật ấn tượng về trận lụt tháng sáu:
Nhưng làng Nung vẫn dẻo dai, bền bỉ vượt qua tất cả, làng làm cuộc thiên di “đùm nhau vào núi”.
Tác giả đã viết về người Mẹ của làng như là nhân vật huyền thoại trong truyện cổ. Người mẹ của năm người con trai làm tướng của vua Hùng, người mẹ dạy dân làng trồng trọt, săn bắn. Và một người mẹ cụ thể là mẹ của mình, một con người bằng xương bằng thịt, sinh ra ở làng, “làm dâu chị cả” ở làng, và làm một người dân bình thường “Mẹ không vào du kích/ mẹ không làm giao liên/ mà mòn vai nát bàn chân những buổi chợ phiên/ bán dầu dọc, bán sơn, bán chè/ mua thuốc, vải, giấy, diêm cho cha/ đưa lên vùng kháng chiến”. Nhưng người dân bình thường đó với tinh thần thượng võ, với lòng tự trọng, lòng căm thù bọn giặc “bờm xơm” đã dùng đòn gánh đi chợ khiến cho “hai thằng tây đen đã toác đầu/ sã vai co cẳng chạy về đồn”.
Thấy rõ cách làm dày dặn trường ca về làng là việc tác giả đi sâu vào lịch sử làng Nung. Từ quá khứ xa mờ đến thời kì tiền khởi nghĩa (Đêm trước). Từ đó tiếp đến Cách mạng tháng Tám thành công ( Bình minh). Rồi tiếp theo là kháng chiến chống Pháp ( Lửa khói). Thế trận làng viết kĩ hơn về làng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chương Đối mặt cũng viết về cuộc chiến này và phần “ Những ngày náo nhiệt” viết về làng trong giai đoạn kết thúc kháng chiến bằng “chiến dịch Điên Biên Phủ quân ta sắp mở”. Rõ ràng nếu xét về lịch sử, tác giả có thể viết tiếp các chương làng Nung trong Cải cách ruộng đất, trong những ngày làm ăn hợp tác và trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Có lẽ sợ như thế sẽ dài và ôm đồm quá chăng, nên Nguyễn Quang Thuyên chỉ dừng lại ở cuộc khàng chiến chống Pháp thắng lợi? Hay tác giả định dành cho trường ca khác? Tuy vậy tác giả cũng hé mở cho thấy làng Nung trong thời buổi mở cửa của cơ chế thị trường. Có người ô tô, kính đen sang trọng nhưng “khi nhắc về pho tượng đổ trong đình/ họ trầm ngâm đắn đo thăm dò/rồi lặng lẽ rút ra vài tờ bạc lẻ”. Tác giả không quên cảnh báo về nguy cơ của làng trước “những mánh lới bỏ thầu/ những toan tính bon chen phỉnh phờ và đố kị” :
Không có một nhân vật nào của “làng” được viết kĩ ngoài “Mẹ của ngày xưa” và “Mẹ”. Thấp thoáng các chiến sĩ trai làng nhập vào đoàn Bông Lau (Các anh về), một du kích ghi nhật kí (Nhật kí một đội viên du kích), các bà mẹ trong Hội mẹ chiến sĩ, các cô gái làng chờ đợi ngày chiến thắng gặp lại chàng dũng sĩ Bông Lau…Trong khi đó phía giặc Pháp, viên quan năm Sa- Puy được khắc họa khá chi tiết bằng nhiều trang viết “Quan năm Sa –Puy mắt đỏ vằn như hai cục máu” ( 5 trang trong phần Lửa khói ), lại được tiếp tục nói đến trong Đối mặt với các phần “giấc mơ lạ” và “đền tội” ( 14 trang). Có lẽ đó là một dụng ý của tác giả khi nói về sự nham hiểm, điên cuồng, tàn bạo của kẻ thù làng Nung?
Có một số chỗ tác giả say sưa làm cho không ít câu thơ mang tính chất diễn ca lịch sử, kể chuyện có vần. Đoạn thơ trong phần “Đối thoại lặng im” mà tác giả coi tiếng khóc là “tuyên ngôn trẻ thơ/ Chỉ một mình tôi biết” có phần gượng ép khi gán những câu hỏi “liệu có thuộc về ta?” cho một đửa trẻ vừa chào đời với “cặp mắt ngáo ngơ”. Một vài chỗ từ ngữ chưa thật chắt lọc, so sánh thiếu chính xác : rồi đêm đêm mẹ rót vào tai con cho quên đi cái nhớ ( không thể hiểu là vì sao phải quên, và cái nhớ ấy là cái nhớ gì? Phải chăng mẹ kể chuyện để con quên đi cái đói? trang 76) tia nắng tháng hai loe hoe như da người ốm ( tr. 101), chân đất, răng đen,/sần sì như cổ tích ( trang 111)…
Phần kết thúc là “Làng của muôn đời”, cũng trùng với tên chung của tác phẩm. Ở đây tác giả muốn tổng kết, khái quát những suy ngẫm, chiêm nghiệm về làng, tình yêu làng, yêu cuộc sống của mỗi cá thể:
Viết trường ca “Làng của muôn đời” theo tôi hiểu đó là một cách thắp cho mình một lối để yêu thương của tác giả. Và Nguyễn Quang Thuyên đã thành công. Giải nhì cuộc thi viết về nông nghiệp và nông thôn của Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp, phát triển nông thôn ( 2010-2015) là con tem chất lượng cho tác phẩm.
Hà Nội, 3/11/2018
V.N
Người gửi / điện thoại