TRỞ LẠI MỐI QUAN HỆ TÌNH CẢM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG VỚI NGUYỄN DU
PGS.TS. Vũ Nho
Tham luận Hội thảo Nguyễn Du Hồ Xuân Hương do VIỆN NGHIÊN CỨU DANH NHÂN sắp tổ chức tháng 10 năm 2024
Đôi lời dẫn nhập
Trước khi nói về mối quan hệ giữa hai người, cần thừa nhận Hồ Xuân Hương, tác giả của thơ Nôm truyền tụng và Hồ Xuân Hương, tác giả của Lưu hương kí là một người. Vì sao đây là một người? Câu chuyện rất dài! Nhưng mọi người đều biết Hồ Xuân Hương lấy chồng lần thứ 2 là lấy ông Tham hiệp trấn Yên Quàng Trần Phúc Hiển. Người này đã đưa bà về nơi trị nhậm và Hồ Xuân Hương đã viết nhiều bài thơ chữ Hán về vùng biển Yên Quảng có trong Lưu hương kí. Điều mà các học giả băn khoăn nhất là: Nếu 2 bà Hồ Xuân Hương là một người, tại sao Hồ Xuân Hương tự chọn thơ mình, nhờ bạn Tốn Phong viết lời tựa, nhưng hầu như không có thơ Nôm mà Landes đã sưu tầm? TS Đào Thái Tôn đã lí giải trong sách của ông nhưng chưa đủ sức thuyết phục. Chúng tôi đã căn cứ vào bài tựa của Tốn Phong để khẳng định rằng, với những tiêu chí mà người chọn thơ và người viết tựa đã thống nhất, chắc chắn những bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương sẽ KHÔNG THỂ có mặt. Dù các bài đó không có mặt, nhưng các bài thơ khác vẫn mang tinh thần Hồ Xuân Hương thông thái, mạnh mẽ, quyết liệt. Vì coi Hồ Xuân Hương trong thơ Nôm mà Landes sưu tầm với Hồ Xuân Hương, tác giả Lưu hương kí là một người, nên mới có thể xem xét bài thơ Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn hầu của Hồ Xuân Hương liên quan tới mối tình của hai người. Và cũng chính vì hai Hồ Xuân Hương là một nên ngoài danh hiệu bà chúa thơ Nôm, chúng ta có thêm một Hồ Xuân Hương cũng rất cao cường trong thơ chữ Hán!
*
Dựa vào tài liệu công bố của GS. Hoàng Xuân Hãn, và nhiều tài liệu khác, chúng ta biết được Hồ Xuân Hương đã giao du với một số danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. Trong số đó có cả nhà thơ Nguyễn Du. Không rõ Nguyễn Du có làm bài thơ nào xướng hoạ với nữ sĩ hay không. Nhưng GS. Hoàng Xuân Hãn ước đoán khi hai người gặp gỡ, giao lưu thì vào khoảng 1792 – 1795. Khi đó Nguyễn Du khoảng 27 - 30 tuổi, còn Xuân Hương chừng 19 – 22 tuổi. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, có 3 bài nói về phụ nữ ở Thăng Long, trong số đó có “Điếu La Thành ca giả”, “Mộng đắc thái liên” (5 bài nhỏ cùng tên), và “Long Thành cầm giả ca”. Có vẻ như cô gái trong chùm bài này là Hồ Xuân Hương, khi đó là một người đẹp trẻ trung, xinh xắn, vui tươi:
Mộng đắc thái liên
(Chiêm bao được hái sen)
I.Khẩn thúc phù điệp quần
Thái liên trạc tiểu đĩnh
Hồ thủy hà xung dung
Thủy trung hữu nhân ảnh
Thắt chặt quần cánh bướm
Hái sen thuyền nhỏ bơi
Nước hồ sen trong vắt
Trong nước có bóng người.
(Đào Duy Anh dịch)
III. Kim thần khứ thái liên
Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lại bất tri
Cách hoa văn tiếu ngữ
Sớm nay đi hái sen
Hẹn với cô nhà bên
Đến lúc nào chẳng biết
Cách hoa nghe cười lên
(Đào Duy Anh dịch)
Thùy giả lân liên cán
Kỳ trung hữu chân ti
Khiên liên bất khả đoạn
Hoa sen ai cũng ưa
Cuống sen nào ai thích
Trong cuống có tơ mành
Vấn vương không thể dứt
(Phạm Khắc Khoan – Lê Thước dịch)
Phải chăng đây chính là điều mà sau này Nguyễn Du viết trong “Truyện Kiều”:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Một người tài tình như Nguyễn Du, một người xinh tươi, trẻ trung, hay chữ như Xuân Hương khó mà không cảm nhau, vấn vương nhau không thể dứt!
Dẫu sao, nếu Hầu còn quen một cô gái Hồ Tây nào khác nữa, thì tình duyên giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương vẫn là có thật. Nó kéo dài ba năm vẹn theo lời Xuân Hương, mà nàng than là ngắn ngủi không tiếng dội”. ( Dẫn từ Đào Thái Tôn - Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản tiến trình huyền thoại dân gian hóa, Nxb Hội Nhà văn, 1999, tr.229).
Chúng tôi xin lưu ý rằng GS. Hoàng Xuân Hãn và cả TS. Đào Thái Tôn đã bỏ qua một chi tiết hết sức quan trọng khi bình luận về 5 bài “Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du cùng với bài thơ của Hồ Xuân Hương viết cho Nguyễn Du. Khá chắc chắn rằng khi Nguyễn Du cùng Hồ Xuân Hương hái sen, Tiên sinh đã làm bài “Mộng đắc thái liên” gửi người mình yêu mến. Và chúng tôi đoán rằng Nguyễn Du đã kín đáo tặng gương sen cho nàng nên viết “ Hoa dĩ tặng sở úy/ Thực dĩ tặng sở liên – Hoa để tặng người mình sợ/ Gương để tặng người mình thương”. Vì có tặng bài “ Mộng đắc thái liên” cho nàng, bởi thế cho nên khi Xuân Hương viết cho Nguyễn Du về sau này, nàng đã kín đáo và khéo léo nhắc lại Mộng ở “Mộng đắc thái liên” trong câu thơ “ Giấc Mộng rồi ra nửa khắc không” về chuyện tình của hai người.
Dưới đây là bài thơ của Hồ Xuân Hương viết về Nguyễn Du:
Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn hầu (1)
( Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ thương
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương siu mấy (2)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
TS Đào Thải Tôn chú:
Kèm theo là lời bình của GS Hoàng Xuân Hãn:
Trong đề mục, gọi Nguyễn Du là Hầu Cần Chánh. Vậy thơ này làm sau tháng 2 năm Quý Dậu ( 1813).
Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết rõ rằng, mùa đông năm trước, Nguyễn Du được triệu từ Quảng Bình về Huế, tháng hai năm sau, được thăng Cần Chánh điện học sĩ, rồi được chọn làm chánh sứ đi tuế cồng triều Thanh. Có lẽ tin này đồn đến Thăng Long đã nhắc cho Xuân Hương nhớ chàng năm xưa từng đã dan díu với mình trong ba năm rồi vào kinh tuyệt không tin tức. Nay được vinh dự ra đi sứ mà mình số phận vẫn long đong. Nàng mừng cho Hầu và có lẽ ước thầm Hầu còn nhớ tình xưa và trên đường đi sứ qua Thăng Long, Hầu ghé bước lại nhà thăm hỏi kẻo ở Cổ Nguyệt đường nàng vẫn “ Năm canh chiếc bóng chong”. Cuối xuân năm ấy, Hầu qua Thăng Long, các quan Bắc thành đặt tiệc tiễn sứ ở nha Tuyên Vũ, Hầu chợt nghe tiếng đàn nguyệt quen tai từ một cô đầu già trong bóng tối bay ra, mà Hầu nhớ đã nghe 20 năm về trước ở nhà anh, bên Giám hồ, đời Tây Sơn. Hầu hỏi thì cô đầu ấy chính là người mà hầu đã thấy trộm khi trẻ, mà là một nhạc nữ cũ trong cung vua Lê. Hầu lòng trữ tình vẫn nặng cho nên, ngày nay ta còn được có thiên kiệt tác “ Bài ca người gẩy đàn đất Long Thành” ( Long Thành cầm giả ca). Với tính tình và trường hợp như thế, Nguyễn Du lúc ấy khó mà quên được Xuân Hương. Nhưng bây giờ hầu là một quan to phụng sứ; vả lại bây giờ Hầu đã 48 tuổi (sinh năm 1765). Ra làm quan triều Nguyễn, Hầu lại giữ thái độ rất cẩn thận, dè dặt. Vậy không thể đáp mộng Xuân Hương. Nhưng biết đâu Hầu không nghĩ tới?
( Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 227 -228)
Ngoài bài thơ Hồ Xuân Hương đề rõ gửi Cần chánh Nguyễn Hầu, còn có một bài thơ khác kín đáo hơn, đó là bài “Chơi Hồ Tây nhớ bạn”. Bài này có trong bản chép của Landes năm 1893:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao giờ
Nhật Tân đê lở nhưng còn lối
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ
Nọ vực Trâu Vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy
So dạ hoài nhân chửa dễ vơi.
“Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng : đọc thơ này “phảng phất như nghe Xuân Hương nhớ bạn đồng châu Nguyễn Du ngày xưa hẹn cùng nhau đi hái sen”. ( Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 321).
Không còn nghi ngờ gì, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương có giao du với nhau, quyến luyến nhau, nhưng mối tình không đi đến hôn nhân. Các bài thơ của Nguyễn Du “Mộng đắc thái liên” và bài của Hồ Xuân Hương “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu” là chứng tích của mối tình tài tử giai nhân đó.
Ghi chú băn khoăn:
Năm 1803 và 1804 Nguyễn Du ở Thăng Long, nhưng khi đó Hồ Xuân Hương đã lấy lẽ Chiêu Hổ ( 1802 -1804) và theo chàng về làng Gáp, Phong Châu ( Nghiêm Thị Hằng – Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nxb Hồng Đức, 2021, tr. 114).Phạm Trọng Chánh lại cho rằng : Nguyễn Du từng lang thang ở Trung Quốc 3 năm ( 17 87 -1790) Sau đó Nguyễn Du trở về Long Châu, Nam Đài chờ đợi và về Thăng Long mùa xuân năm 1790 cùng sứ đoàn của anh. (Xem Phạm Trọng Chánh, “Nguyễn Du, mười năm gió bụi”, Khuê Văn Paris xuất bản, 2011). Chưa có điều kiện kiểm tra thông tin của TS. Phạm Trọng Chánh, nhưng quả là Nguyễn Nễ, anh Nguyễn Du có giúp Tây Sơn và có làm Phó sứ Trung Quốc khoảng 1790 -1792 ( Theo Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế - Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, bộ mới, Nxb Văn hóa thông tin, 2013, tr. 831).
Như vậy những mốc năm tháng rất mâu thuẫn.
Nếu mối tình đó xảy ra khi Nguyễn Du về thái Bình năm 1786, thì không thể, vì khi đó Hồ Xuân Hương mới 13 tuổi.
Nếu mối tình đó xảy ra ở thời điểm GS Hoàng Xuân Hãn dự đoán, thì lại trái với thời điểm 1789 Nguyễn Du đã về quê vợ và ở miết đến 1796 thì về quê Nghi Xuân.
Thật ra thì mối tình “ba năm” ấy ( có đúng ba năm như trong thơ hay chỉ không qúa hai năm như ước đoán của GS. Hòang Xuân Hãn) xảy ra vào thời điểm nào?
Nhân cuộc Hội thảo khoa học này, chúng tôi xin ghi lại những băn khoăn trên để các vị thức giả chỉ giáo.
Thấy rằng, hai tác giả đã không cập nhật thông tin về Hồ Xuân Hương. “ Trước lấy lẽ ông Phủ Vĩnh Tường, sau cũng cam phận bé mọn khi bước đi bước nữa với Cai tổng Cóc. ( Có tài liệu nói bà là vợ bé của Tham Hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển)”. Trong khi các tài liệu tin cậy nói rõ bà lấy lẽ lần thứ nhất là lấy ông Nguyễn Bình Kình, tục gọi là Chiêu Hổ. Mối duyên tan vỡ, bà lấy lẽ lần thứ hai là Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Ông Trần Phúc Hiển chính là người làm tri phủ Tam Đái ngày trước và kí bút danh Mai Sơn Phủ khi giao du với Xuân Hương. Khi ông bị tội chết, Hồ Xuân Hương khóc ông, nhưng vì lí do tế nhị nên bài thơ có nhan đề “ Khóc ông phủ Vĩnh Tường”, chứ không phải khóc ông Trần Phúc Hiển, hay khóc ông Tham hiệp trấn Yên Quảng. ( Chúng tôi đã viết bài báo công bố trên “Thời báo Văn học nghệ thuật” về điều này).
Hai tác giả Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế cũng lầm lẫn Chiêu Hổ Nguyễn Bình Kình với tác giả Phạm Đình Hổ, bởi thế nên viết “ Đối thủ của bà trên trường văn bút, xướng họa thi ca, có lẽ chỉ Phạm Đình Hổ, Trần Phúc Hiển là khiến được bà mến phục phần nào ( X. Phạm Đình Hổ)”. ( tr. 377). Đã rõ là ông Phạm Đình Hổ không quan tâm thơ Nôm, do đó không có thơ xướng họa kí tên Chiêu Hổ với Hồ Xuân Hương. Ba bài thơ Nôm ấy là của Nguyễn Bình Kình tức Tổng Cóc, tức Chiêu Hổ, người chồng mà bà Hồ Xuân Hương lấy lẽ lần thứ nhất. Từ tháng 3 năm 1962, Tảo Trang đã chứng minh một cách thuyết phục rằng Chiêu Hổ không phải là Phạm Đình Hổ (Đào Thái Tôn – sách đã dẫn trong bài, trang 31).
Chúng tôi mong được trao đổi lại với hai tác giả Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế.
Hà Nội, 8/2024
Người gửi / điện thoại