Nguyễn Tiến Lợi
KÝ ỨC HOÀI NHƠN
Trong công việc tìm kiếm những liệt sĩ còn thiếu thông tin, khó nhất là xác định hài cốt dưới mộ là của người có tên ghi trên bia. Đành rằng phải nhờ vào công nghệ giám định gen, nhưng do thời gian quá lâu, mẫu sinh phẩm hài cốt liệt sĩ không còn đảm bảo chất lượng, thậm chí có hài cốt gồm cả các bộ phận cơ thể của những liệt sĩ khác.
Quá trình tra cứu trên mạng xã xội, tôi phát hiện trong số ảnh bia mộ tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Hoài Mỹ, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định có một mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thá; Tra trên Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng danh sách hồ sơ quân nhân hy sinh tại khu vực này thì có hai liệt sĩ cùng họ tên thuộc Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 (Sao Vàng), đó là liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, sinh năm 1929, không rõ quê, tái ngũ từ Nông trường Thanh Hà, tỉnh Hòa Bình, hy sinh năm 1966 tại xã Hoài Hảo và liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, quê xã Long Sơn, Lương Sơn, Hòa Bình, hy sinh năm 1967 ở xã Hoài Mỹ, quê quán ghi trên bia là tỉnh Hà Bắc, có khả năng do dịch ra từ hai chữ viết tắt Hòa Bình, vì hồ sơ thông tin liệt sĩ hy sinh tại đây không có liệt sĩ quê tỉnh Hà Bắc. Tôi tìm đến gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, ở xã Long Sơn để thông báo và tư vấn làm hồ sơ đề nghị Cục Người có công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép lấy mẫu sinh phẩm hài cốt liệt sĩ để giám định ADN. Tiếp tôi là ông Nguyễn Văn Hổ, em ruột của liệt sĩ Thá, ông Hổ cho biết gia đình có bảy chị em, liệt sĩ Nguyễn Văn Thá là thứ năm, ông Hổ là thứ sáu, còn một em trai út Nguyên Hữu Ríu cũng là liệt sĩ hy sinh sau ông Thá hai năm. Tôi tranh thủ tra trên mạng biết được liệt sĩ Ríu thuộc Trung đoàn 33, hy sinh ở Đồng Nai, có thể đã được quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ, nhưng chưa xác định được danh tính, hiện có tên ở Nhà bia tưởng niệm tại xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gia đình có thể vào thăm viếng sẽ được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí. Còn liệt sĩ Nguyễn Văn Thá thì đã có đủ căn cứ làm thủ tục đề nghị giám định ADN.

Nửa năm sau tôi nhận được điện thoại của ông Hổ cho biết kết quả giám định ADN giữa mẫu sinh phẩm hài cốt liệt sĩ với mẫu sinh phẩm của thân nhân không khớp. Chia buồn với gia đình ông Hổ, tôi chuyển sang tìm liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, tái ngũ từ Nông trường Thanh Hà, có vợ là Ngô Thị Tân. Việc đầu tiên là liên hệ với cán bộ làm công tác thương binh, xã hội Thị trấn Thanh Hà, nay thuộc huyện Lạc Thủy, nhưng được trả lời là trong danh sách liệt sĩ của thị trấn không có tên của liệt sĩ Thá. Tôi lục lại lịch sử Nông trường Thanh Hà, năm 1968 Bộ Nông trường điều một số đội sản xuất về Nông trường Lương Mỹ (Lương Sơn) và Nông trường Sông Bôi (Lạc Thủy), chắc là liệt sĩ Nguyễn Văn Thá cũng được chuyển thờ cúng theo gia đình về một trong các nông trường đó. Tại thời điểm những năm 70 của thế kỷ trước, tôi biết có ông Quách Bằng Tống đã từng tham gia lãnh đạo Nông trường Lương Mỹ (sau này ông là Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hòa Bình đã nghỉ hưu), ông Tống cũng không nhớ hồi đó có gia đình công nhân nào thờ cúng liệt sĩ Nguyễn Văn Thá?
Thật may mắn cho tôi được Phòng Người có công - Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hòa Bình cung cho danh sách gần sáu nghìn liệt sĩ của tỉnh, nhờ đó tôi biết được liệt sĩ Nguyễn Văn Thá đã chuyển thờ cúng theo gia đình về quê xã Đức Lập, Đức Hòa, Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An). Trong một lần đi di chuyển các hài cốt liệt sĩ ở Long An về Hòa Bình tôi đã tìm đến xã Đức Lập (nay là xã Đức Lập Thượng), huyện Đức Hòa và được biết gia đình bà Ngô Thị Tân đã chuyển đi làm ăn sinh sống tại xã Phước Vĩnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh từ những năm sau giải phóng. Thế là đành phải để dịp khác mới đến được tỉnh Tây Ninh.
Hơn một năm sau tôi vào Tây Ninh trong lần đi tìm hài cốt liệt sĩ Bùi Văn Lợi, quê xã Phú Lai, Yên Thủy, được đồng đội chôn cất sau trận đánh Cứ điểm Cà Tum năm 1968 chưa được quy tập vào nghĩa trang. Xong việc tôi tìm đến thăm gia đình bà Tân, vợ của liệt sĩ Nguyễn Văn Thá. Bà Tân bùi ngùi kể lại những kỷ niệm thời gian ở Nông trường Thanh Hà. Hồi đó bà cùng bao cô gái trẻ miền xuôi theo tiếng gọi của Đảng lên xây dựng nông trường, bà làm việc ở Đội Chăn nuôi, chủ yếu là nuôi lợn và chăn bò. Rồi bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Thá, cán bộ Miền Nam tập kết, khi đó là Đội trưởng Đội Chăn nuôi. Cưới nhau được hơn ba tháng, ông Thá lên đường tái ngũ trở về Miền Nam chiến đấu. Bẵng đi một thời gian, bà Tân nhớ là cuối năm 1971 gia đình nhận được giấy báo tử, đó là nỗi đau lớn nhất của đời bà. Sau giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, bà Tân mang con về quê chồng sinh sống, nhưng chưa được bao lâu do làm ăn khó khăn, hai mẹ con lại chuyển gia đình lên đây. Con trai bà là anh Nguyễn Văn Đức, hiện là Bí thư Đảng ủy xã Phước Vĩnh. Anh Đức mở tủ lấy ra cuốn nhật ký của ba Thá đưa cho tôi và nói:
- Trước khi vào chiến trường, ba cháu để lại cho mẹ con cuốn nhật ký này, trong đó ghi chép đầy đủ những hoạt động từ năm 1954 đến năm 1964, trang cuối cùng là kết thúc huấn luyện ở Xuân Mai.
- Vậy gia đình đã biết mộ của ông nhà hiện nằm ở đâu chưa? - Tôi hỏi.
- Dạ. Con đã nhờ người người kiếm miết mà không thấy, con cũng liên hệ với một số anh em có ba đi chiến trường cùng đợt, họ cũng không giúp được gì.
Sau khi nghe tôi trao đổi câu chuyện gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, quê xã Long Sơn, Lương Sơn, Hòa Bình đã làm thủ tục giám định ADN ngôi mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, quê Hà Bắc tại nghĩa trang liệt sĩ xã Hoài Mỹ nhưng không khớp. Theo hồ sơ liệt sĩ Nguyễn Văn Thá, nhập ngũ từ Nông trường Thanh Hà cũng hy sinh tại đây thì có thể người nằm dưới mộ là ông nhà. Bà Tân và anh Đức đều tỏ ra mừng rỡ, nghe tôi tư vấn các loại giấy tờ về thủ tục hồ sơ.
Tôi cẩn thận giở từng trang nhật ký, nét chữ đẹp và rõ ràng, được ghi bằng bút máy mực xanh đen khó phai đã giúp tôi chắp nối được toàn bộ quá trình tham gia cách mạng của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thá. Nhập ngũ năm 1948, ông Thá được biên chế vào Đội 2000, là Đội biệt động của huyện Châu Thành, thuộc Tỉnh đội Long Châu Hà, hoạt động vùng tôn giáo nhiều năm. Đầu năm 1954 Đội kết hợp với một đại đội của Tiểu đoàn 307 đánh diệt Đồn Mặc Cần Dưng, ông Thá lập thành tích được tặng giấy khen. Sau trận đánh đó đơn vị được lệnh chuyển quân chuẩn bị tập kết ra Bắc. Đoàn sĩ quan quân sự gồm 24 người, đây là đoàn tập kết đầu tiên với danh nghĩa là Phái đoàn sĩ quan của "Ủy ban liên hợp" để điều động lực lượng tập kết. Đoàn xuất phát từ Nam Thái Sơn (Nay thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Rạch Giá), vượt biển qua huyện An Biên, ra căn cứ Phó Sinh (Hồng Dân - Bạc Liêu) đến Ngã bảy Phụng Hiệp, đây là nơi làm việc của "Ủy ban Liên hợp". Hôm sau Pháp cho 2 trung đội lính Lê Dương đi xe hộ tống đoàn xuống Xuyên Mộc - Bà Rịa, nhập với một đoàn của Miền Đông cùng lên tàu ra Bắc. Sau mấy ngày trên biển, Đoàn cập bến Sầm Sơn, Thanh Hóa, lên bờ đi bộ về thị xã Hà Đông là nơi chính quyền vừa về ta được mấy ngày. Tiếp đó đoàn đi bộ đến thị xã Sơn Tây và di chuyển bằng ô tô lên biên giới Lạng Sơn để sang Quế Lâm (Trung Quốc), học tập tại một trường quân sự của ta. Năm sau các ông trở về nước và trở thành những cán bộ chủ chốt của Trung đoàn 660 bộ đội Miền Tây Nam bộ tập kết, khi đó đã phát triển thành 4 trung đoàn để thành lập Sư đoàn 338 do Đại tá Tô Ký làm sư đoàn trưởng kiêm chính ủy sư đoàn. Vậy là gần 10 năm làm bộ đội Cụ Hồ, lúc này ông mới thực sự trở thành người lính chính quy được Đảng và Nhà nước đào tạo đàng hoàng. Sau hơn 2 năm làm công tác huấn luyện tại Tiểu đoàn 15 trực thộc sư đoàn, ông được thăng quân hàm trung úy, trợ lý chính trị. Những học viên tập kết huấn luyện tại đây là nguồn sĩ quan đào tạo cho Miền Nam sau này.
Năm 1958 đồng chí Lê Duẩn từ Miền Nam ra có đến thăm đơn vị, thông báo một số tình hình có nhiều thay đổi, lực lượng vũ trang của ta ra đời ở nhiều nơi, đang cần lực lượng nòng cốt trở về giải phóng quê hương. Kỷ niệm sâu sắc nhất của ông là được gặp Bác Hồ trước khi trở lại chiến trường. Vào một sáng trung tuần tháng 12 năm 1959 tại nhà làm việc của đồng chí Phạm Hùng, khi đó làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Hôm đó Bác Hồ dặn: “Các chú về Nam cho Bác gửi lời thăm các cụ, các đồng bào, đồng chí Nam bộ dồi dào sức khỏe, cố gắng chiến đấu và công tác tốt để Bác sớm được vào thăm Miền Nam.” Bác còn nhắc nhở nhiều điều nữa, để khi trở về đơn vị họp Chi bộ mọi người đều viết quyết tâm thư gửi lên Quân ủy trung ương trước khi lên đường. Nhưng thật không may cho ông Thá, cơn đau ruột thừa đã khiến ông bị lỡ chuyến đi đầu tiên ấy. Điều trị xong ông đươc điều xuống Trung đoàn 658 để rồi năm sau chuyển sang xây dựng các nông trường nằm dọc theo đường 21 thuộc tỉnh Hòa Bình, để ém quân như lời của Đại tá Tô Ký. Khi đó Nông trường Thanh Hà được giao trồng chè, cây ăn quả và chăn nuôi. Mấy năm sau ông Thá xây dựng gia đình với cô gái trẻ công nhân Đội chăn nuôi Ngô Thị Tân. Sống với nhau chưa được bao lâu thì ông Thá nhận lệnh tái ngũ. Trong thời gian huấn luyện ông vẫn tạt về thăm vợ, nhưng không đợi đứa con ra đời ông đã phải lên đường vào Nam chiến đấu.
Bà Tân một mình nuôi con trong hoàn cảnh thời bao cấp, nông trường nợ lương công nhân nhiều tháng. Con lợn, con bò của tập thể nuôi lớn lại xuất chuồng theo kế hoạch, người chăn nuôi chỉ biết đun cám, cắt cỏ, vệ sinh chuồng trại hết lứa này đến lứa khác. Nhưng cũng có cái vui là được góp công sức để xây dựng xã hội chủ nghĩa, sẻ chia với bộ đội ngoài tiền tuyến đánh giặc, nơi đó có chồng mình, ba của con mình sao không vui được. Bà thường xuyên theo dõi tin chiến thắng của quân giải phóng Miền Nam và hy vọng một ngày không xa đất nước thống nhất, ông Thá sẽ trở về đón hai mẹ con vào quê nội. Ấy vậy điều mà bà không mong muốn đã đến, được tin ông Thá hy sinh, nông trường đã làm lễ truy điệu chu đáo rồi, mà bà Tân vẫn nghĩ là quân đội báo tử nhầm, bà hy vọng một ngày nào đó ông Thá sẽ trở về trong vòng tay của mẹ con bà.
Giờ mới biết tin ông nhà khi đó chiến đấu trong đội hình của Sư đoàn 3 Sao Vàng và hy sinh ở một vùng đất miền Nam Trung bộ, từ Tây Ninh ra Bình Định không xa lắm, nhưng khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ ông nằm lại nơi đó mà chưa được người thân nhang khói, đối với bà là một nỗi buồn vô tận. Dù người nằm dưới mộ là ông Nguyễn Văn Thá, hay ai đi nữa, đều là những anh hùng liệt sĩ đã không tiếc tuổi xuân, chiến đấu ngoan cường và anh dũng hy sinh, để mảnh đất mà các ông ngã xuống được giải phóng, từ đó đến nay người dân có cuộc sống hòa bình, không còn lo cảnh giặc giã, chết chóc, đau thương như thời chiến tranh nữa.
N.T.L.
Người gửi / điện thoại