Hồ Bá Thược
HOÈ “NHÁI”
Thật lạ, chưa bao giờ có cuộc điều chuyển cán bộ, công nhân viên nhanh đến thế. Mới thông báo buổi sáng, buổi chiều anh ta đã có mặt. Mà có phải gần gặn nói là đến được ngay đâu. Đang ở đơn vị cũ, ngoắt một cái đã có mặt ở đơn vị mới, cứ như người dưới đất chui lên vậy.
Cấp trên thừa biết đài thông tin của Ban 7 không còn hoạt động nữa, tất cả đã bàn giao sang bên Bộ tư lệnh Tiền phương từ lâu rồi. Mọi thông tin liên lạc từ hữu tuyến đến vô tuyến, đều do bên quân đội đảm nhiệm. Ở bên cơ quan Ban 7, nhân viên thông tin liên lạc, chỉ “ngồi chơi, xơi nước” thôi. Vậy mà, cấp trên vẫn điều động người xuống Ban là sao?
Đó là một người đàn ông cao, to, khoảng 25 - 26 tuổi, dáng người khoẻ mạnh, da hơi sẫm màu, với khuôn mặt chai sạn, tóc cắt “cua”, cảm giác như luôn sẵn sàng đương đầu với mọi bất trắc, khó khăn. Bước chân chắc nịch. Rõ ràng con người này rất tự tin.
Hỏi thăm vào nhà dân, nơi Trưởng phòng Tổ chức ở nhờ, chào hỏi xong, anh ta oang oang như trong cuộc họp đông người:
Anh ta cứ thao thao bất tuyệt với hoa hoè, với ếch nhái mà quên nói điều chính yếu của mình. Đến khi Trưởng phòng nhắc, anh mới giở ba lô, đưa ra một quyết định điều động công tác. Trưởng phòng xem kỹ rồi hỏi:
Trưởng phòng nhấc kính lên nhìn anh ta thêm lần nữa, rồi lẩm bẩm trong miệng, nhưng cũng vừa đủ cho người đối diện nghe thấy:
Hắn không bình luận gì, cười khì khì.
Thời gian buổi chiều còn lại, cậu ta đi hết lượt trong cơ quan, hễ chỗ nào thấp thoáng cán bộ ở trong nhà là xộc vào. Vẫn câu chuyện trình bày với Trưởng phòng như lúc nãy, anh ta lặp lại với mọi người như vậy. Bỗng chốc trong cơ quan, từ Thủ trưởng Ban xuống cán bộ nhân viên, đều biết có một người tên là Hoè “nhái”, vừa mới đến nhận công tác.
Có điều hơi lạ, chưa thấy ai làm thế bao giờ. Hễ gặp người nào, hỏi thăm tên tuổi, công việc xong, anh ta mở nút túi áo ngực, lôi ra một quyển sổ nhỏ hơn bàn tay một chút. Nhìn thấy quyển sổ đã sờn gáy, bìa đen nhẻm, mới biết quyển sổ này đã từng đi theo nhiều năm với anh ta rồi. Nhà nào có bàn ghế, thì ngồi đàng hoàng, còn không kê đầu gối, lom khom ghi ghi chép chép. Mọi người trố mắt ngạc nhiên, hỏi tại sao? Anh ta cười, thú nhận:
Mọi người cười vui vẻ, cho là rất có lý. Chiến tranh, người đi, người đến, thương vong mất mát, biết đâu mà lần. Có được danh sách này, mai sau còn tưởng nhớ đến chứ. Một cậu thanh niên còn trẻ, bông đùa:
Chiều nhập nhoạng, trên cành cây cọ cao nhất trong vườn bọ Tuế, chỉ còn sót lại chút nắng vàng rực rỡ. Gió từ ngoài sông Ngàn lao xao thổi vào. Các giọt nắng lung linh như những hạt cườm, nhảy múa trên lá giống chiếc ô xoè, bồng bềnh trong bầu trời xanh thẫm. Đàn chim ri ríu rít tìm chỗ đậu, khiến không gian trở nên ồn ã.
Cạnh nhà bọ Tuế, đài 15W được bố trí dưới nhà hầm, nửa nổi nửa chìm trong vườn bà Lành. Vì khoảng cách không xa, mỗi khi nhân viên lên máy, nằm bên này nghe tiếng “tạch tè, tạch tè” đến vui tai. Nhưng từ khi Đài không còn hoạt động, đêm đêm trống vắng đến lạ. Bỗng nhiên, giọng một người đàn ông sang sảng từ bên nhà bà Lành vọng sang:
Một lúc sau, tay Đài trưởng dẫn theo người đàn ông sang bên tôi giới thiệu nhân viên mới, rồi đề nghị:
Người khách cũng lên tiếng ngay:
Có lẽ anh ta muốn lặp lại những điều cả cơ quan từ hồi chiều đã nghe, vì lúc đó ở Phòng Kỹ thuật tôi cũng có mặt, liền cắt ngang:
Sáng hôm sau, anh ta đi một vòng bên xóm cơ quan dân sự ở nhờ, rồi sang tận bên xóm Bộ tư lệnh đóng quân, thậm chí lội ngược một đoạn sông Ngàn, xem mấy cọn nước nổi tiếng. Đi hết cánh đồng, thấy nhiều ao chuôm, nhiều hố bom cũ biến thành ao, bèo tây che kín mặt nước. Vui chân vào tận khe nước từ trong núi chảy ra.
Mọi người thấy Hoè “nhái” lấm tấm mồ hôi, có vẻ hơi mệt một chút, nhưng lại rất vui. Uống trọn một bát nước chè xanh đã nguội, anh ta khà một tiếng như thể vừa uống xong bát rượu, rồi đưa ra một nhận xét trước đó chưa ai nói về việc này:
Nhân đây cũng thông báo với anh em một tin mừng, nguồn thực phẩm ở địa phương rất phong phú, ao chuôm của dân lâu nay không dùng, đã hoang hoá cùng với các hố bom thành ao, bèo phủ kín cả rồi. Đó là kho thực phẩm thiên nhiên ban tặng. Ăn cơm trưa xong, tôi sẽ đi lấy thực phẩm về, liên hoan luôn cho cả hai nhóm.
Lúc mọi người ngủ trưa vừa dậy, mắt còn cay sè đã thấy một thùng tôn gánh nước để giữa nhà, cùng với mấy ngọn măng tre bóc vỏ. Mọi người xúm xít quanh thùng, đếm được hơn chục con ếch cụ. Đúng là trong mơ, vì món thịt ếch này, tôi còn nhớ đã được ăn một lần từ khi tóc còn để chỏm, mùi vị ra sao cũng không còn nhớ nữa.
Thời buổi chiến tranh, thiếu thốn cực khổ thế này mà có được chút chất tươi, cảm thấy như hạnh phúc vỡ oà. Bây giờ tôi mới cảm nhận sâu sắc Hoè “nhái” ngủ chung giường với tôi là rất sáng suốt.
Buổi ra mắt của Hoè “nhái” rất thành công, ngoài món “gà đồng” xào măng, thêm hai hộp thịt gà cao cấp. Đây là thực phẩm đặc biệt được Hậu cần Bộ tư lệnh dành riêng cho nhóm phá bom “vào sinh ra tử” mới có. Tôi khéo nịnh, được cô y tá dấm dúi cho nửa ca cồn, pha thêm nước làm rượu. Đêm nằm mơ, tôi ngỡ ngàng thấy tình bạn, tình đồng chí, bắt đầu từ mấy chú ếch cốm. Tỉnh dậy, không tin đó là việc có thật.
Không biết về sau, cuộc đời của Hoè “nhái” có được “xuôi chèo mát mái” không? Nhưng cuộc sống của cậu thời thơ ấu, không mấy dễ dàng. Cha chết tai nạn khi đi làm xây dựng, mẹ buồn bã ốm đau qua đời, lên mười tuổi, cậu chỉ sống một mình.
Nói là được ông chú nuôi dưỡng, nhưng thực tế một mình cậu bươn trải. Duy nhất, cha mẹ để lại một căn nhà nát và ba sào ruộng. Nhà một mình cậu ở, ruộng ông chú làm, mỗi mùa cung cấp cho cậu ít thóc lúa, thế là xong. Cậu bắt đầu cuộc sống của mình bằng cách mò cua, bắt ốc, ếch, nhái… Ngoài việc để ăn, còn lại đem bán lấy tiền đong gạo, mua sắm quần áo. Cậu không bỏ sót đầm lầy, góc ruộng, ao chuôm, chỗ nào cũng có dấu chân. Bất kể ngày nắng, lẫn ngày mưa, lúc nào cũng thấy cậu nhấp nhô ngoài đồng. Tuy khổ cực, nhưng cậu lại thiết tha đi học. Mười tuổi mới lên được lớp hai. Cứ nửa ngày học, nửa ngày mò mẫm ngoài cánh đồng. Đến khi thành chàng trai, cậu mới tốt nghiệp cấp hai. Từ đó cậu nói lời tạm biệt ốc ếch, cua, cáy… rẽ theo một hướng khác.
Đó là cơ hội bất ngờ, từ trên trời rơi xuống. Một vị cán bộ to trên huyện xuống xã làm việc, nghe nói có một thanh niên, mồ côi cha mẹ, tự lực, tự cường nuôi sống bản thân, còn ham học hành. Ông tò mò đến nhà gặp, có nhận xét tốt, đề đạt với xã đưa cậu lên huyện. Tất nhiên, xã đồng ý luôn.
Ông cho cậu đi làm ở một vài xí nghiệp trong huyện. Điều lạ nhất ở ông, không để cậu ở lâu một xí nghiệp. Người xưa bảo “quí hồ tinh hơn quí hồ đa”, ông thì ngược lại, cho làm một năm, năm sau lại chuyển đến xí nghiệp khác. Mỗi lần thay đổi, ông hỏi xí nghiệp đó có gì nổi bật. Ông rất ngạc nhiên vì những nhận xét táo bạo, và rất đúng đắn của cậu. Lập tức, ông cho cậu đi học một lớp quản lý xí nghiệp ngắn ngày.
Chiến tranh lan ra cả nước, mỗi ngày một ác liệt, ông từ một quan chức cấp huyện lên cấp tỉnh, chẳng bao lâu được điều động về Bộ nhận công tác. Ông đưa cậu đi theo, cho học lái xe, về lái xe riêng cho ông. Chỉ được hơn một năm, thấy cậu trưởng thành, chững chạc trong công việc, ông cho cậu vào tuyến lửa trực tiếp ở Ban 7, đơn giản là làm nhân viên đài 15W.
Cũng phải công nhận, Hoè “nhái” biết cách giao tiếp, ứng xử rất đúng mực. Công việc ở Đài 15W không có gì, nên suốt ngày cậu lân la đến các bộ phận trong cơ quan, tiếp xúc nhiều cán bộ công nhân viên. Được anh em trong cơ quan tiếp nhận vui vẻ, tiếp chuyện.
Hơn nữa, mối quan hệ bền chặt này, còn phụ thuộc vào thương phẩm ếch nhái. Bất cứ ai có nhu cầu, Hoè “nhái” đều đáp ứng, đó là bữa ăn ngày sinh nhật, lên lương, hoặc thoát nạn bom đạn khi xuống đơn vị công tác trở về, đều nhờ đến Hoè “nhái”, thiết kế món ăn đặc sản. Việc này, Hoè nhái đặt ra một nguyên tắc, lâu ngày thành quen, được mọi người ủng hộ, chỉ giúp nhau thôi, không so kè gì hết. Muốn có bữa ăn, phải đặt trước một ngày, mỗi người chỉ được một ếch cụ, chủ bữa tiệc được hai. Số người tham dự phải báo trước. Việc nấu nướng, đều do người cung cấp chế biến, gia chủ chỉ việc thưởng thức. Ngoài những ngày đặc biệt đó, không nhân nhượng với bất cứ lý do gì, đến nỗi trong nhóm đài 15W của anh ta, cũng đành phải chịu nguyên tắc này.
Riêng nhóm bom mìn thường xuyên được thưởng thức, vì mỗi lần đi phá bom đều “hút chết”, nên Hoè nhái không thể từ chối. Có một lần, Hoè nhái khệ nệ đội một mâm, lên biếu lãnh đạo Ban, món thịt ếch. Mở lồng bàn ra, thấy ba chú ếch ngồi chồm chỗm trên ba chiếc đĩa lớn, các Cụ trợn mắt, mặt tái xanh như người sắp ngất.
Ăn xong, mặt các cụ đỏ tưng bừng, bảo nhau “Ngon tuyệt cú mèo, cao lương mĩ vị không bằng”. Hoè nhái tủm tỉm cười, thu dọn bát đĩa, thầm nghĩ: “Thế là, lọt vào mắt xanh các cụ rồi”.
Một lần tôi theo chân Hoè “nhái” đi câu ếch. Hắn nói rằng, lúc còn bé chỉ biết bắt thật nhiều, làm cạn kiệt nguồn sinh sản. Sau này tìm hiểu kỹ môi trường sống, mới ngỡ ra kiến thức của mình còn eo hẹp lắm.
Ở nước ta, có gần một trăm loài ếch nhái. Mỗi địa phương, tuỳ theo môi trường có thể phân ra: Loài ếch sống dưới nước, có tập tính kết đôi. Con cái dài 10 cm, con đực nhỏ hơn chỉ bằng nửa con cái.
Loài ếch sống trên cạn đào lỗ ở, khi đẻ kêu liên tục để thu hút bạn tình, đẻ không cần có nước.
Loài ếch bám đá sống trong vùng nước chảy xiết. Ngoài ra còn loài ếch nhái sống trên cây, chân cẳng có màng, có thể bay được, chủ yếu phổ biến ở miền núi, chiếm non nửa các loài ếch nhái nước ta đấy.
Nhờ tập tính ghép đôi của loài ếch nhái, anh ta lựa chọn nên bắt con đực hay con cái. Nghe tiếng kêu liên tục, biết ngay bạn tình đang gọi nhau, chỉ sau ba, bốn ngày đẻ trứng. Loài nhuyễn thể này, sống dưới nước thở bằng da, lên cạn thở bằng phổi. Khi nhô lên mặt nước, là cơ hội anh ta thả lưỡi câu. Chỉ trong nháy mắt nhẹ nhàng lôi tuột chú ếch lên bờ, không làm kinh động đến người bạn tình đang ngủ gà, ngủ gật bên cạnh.
Anh ta khoe, chưa đi hết mấy xã cạnh bên, riêng xã này ước tính được số lượng ếch nhái trong mỗi ao chuôm. Khi đi câu, anh ta chỉ bắt ba, bốn con một ao, còn lại để chúng sinh sản, lần sau quay lại. Nếu bắt được con ếch cái, thấy bụng hơi to một chút, hai bên sườn rất nhám là ếch chuẩn bị đẻ. Làm nhám như vậy tạo cơ hội cho ếch đực bám lưng dễ dàng. Những con ếch này anh ta thả xuống ao cho sinh sản. Với cách này, nguồn khai thác không bao giờ cạn kiệt, còn tạo môi trường sinh sôi…
Cái tài của anh ta, là phát hiện con mồi ở nơi nào trong lớp bèo dày đặc, để thả câu. Anh ta chỉ cho tôi trên mặt ao bèo, chỗ nào thấy rung nhẹ là dưới đó có ếch. Vấn đề là làm thế nào thả lưỡi câu xuyên qua lớp bèo xuống mặt nước? Thấy cách làm khoa học, mới biết, hắn đúng là một chuyên gia thực thụ, vừa khéo léo, vừa nhẹ nhàng, nhẫn nại, hiệu quả rất cao.
Sau lần theo chân Hoè nhái đi câu ếch, tôi mới ngẫm rằng, bản năng sinh tồn của con người thật kỳ diệu. Trong hoàn cảnh nào, cũng tìm ra được cách sống của mình, biết làm ăn lương thiện, biết chắt chiu, gìn giữ, biết ơn những gì thiên nhiên ban tặng, cho ta để bảo tồn…
Tuy nhiên, trong trong cơ quan, đã có một số ý kiến đáng được suy nhẫm. Trong lúc mọi người bận rộn với công việc, tại sao lại có người nhàn nhã như vậy? Hết la cà chỗ này, lại sang chỗ khác? Thậm chí cứ ba bốn tháng anh ta lại xin tranh thủ về thăm gia đình. Việc này không chỉ một lần, xảy ra nhiều lần, giống như một thói quen định kỳ. Lý do về thăm gia đình, nhiều người cho là không hợp lý, vì anh ta nói mồ côi từ nhỏ cơ mà. Không lẽ, ngoài cơ quan này ra, anh ta lại còn sinh hoạt cơ quan khác?!
Trong khi lãnh đạo Ban, Trưởng phòng Tổ chức nhân sự, biết việc này, nhưng không có ý kiến gì, điều ấy rất lạ? Có người bảo Hoè “nhái” là “con ông, cháu cha” của một vị nào đó ở ngoài Bộ nên được ưu tiên? Lại cũng có người cho rằng có thể anh ta là người của “Tổ chức” được “cài cắm” vào cơ quan, để theo dõi diễn biến tư tưởng, tham ô, tiêu cực của giới chức lãnh đạo, thậm chí cán bộ công nhân nhân viên?... Lý do này bị gạt đi ngay:
Lại cũng có người cho rằng, Hoè nhái tung ra một chiêu độc, đó là “chiêu” tầm quất. Bất kể ai có nhu cầu, anh ta không ngần ngại, phục vụ luôn, chỉ trừ đám nữ nhân viên. Đây là cơ hội để anh ta lấy thiện cảm, chuyện trò, và biết đâu khai thác điều mình cần…
Hoè “nhái” cũng biết trong cơ quan có đôi điều thầm thì về mình, nhưng mặc kệ, coi như không nghe, không thấy. Anh ta vẫn vô tư, rong ruổi như thường lệ. Điều rõ ràng nhất, không thể không thừa nhận anh ta có quyết định biên chế nhân viên Đài 15W hẳn hoi. Cho dù, bây giờ tạm dừng hoạt động, nhưng đến lúc nào đó, cần sử dụng đến điện đài thì sao? Mà không riêng mình anh ta, còn cả một nhóm nhân viên nữa cơ mà?
Ngày đầu cơ quan di chuyển đến chỗ ở mới, phòng Hành chính dẫn tổ phá bom vào ở nhờ nhà bọ Tuế. Ai cũng mừng vì thấy nhà cao, cửa rộng, thoáng mát. Được chủ nhà đón tiếp nồng hậu, nhường hẳn nhà trên cho các chú bộ đội (thực ra là cán bộ dân sự, mặc quân phục do Hậu cần Bộ tư lệnh cung cấp). Gia đình ở hai gian nhà “chuôi vồ” phía sau. Xếp đồ đạc xong, mọi người đang ngồi uống nước, bỗng nhiên xuất hiện một cô gái trước cửa nhà. Chủ nhà giới thiệu đây là cô con gái lớn tên là Tâm. Sau Tâm còn một em trai 12 tuổi nữa đang đi học. Cô không cất lời, chỉ gật đầu chào, miệng tủm tỉm cười, đi nhanh vào buồng riêng của mình
Tôi ngỡ ngàng nhìn cô gái, hình như đã gặp ở ngoài cọn nước sáng sớm, lúc đang sửa máng nước. Tôi thầm đoán cô gái mười bảy, mười tám gì đó, không quá đẹp, nhưng lại rất có nét. Dáng người cân đối, khoẻ mạnh, vồng ngực cao dưới tà áo nâu gụ bạc màu. Bờm tóc trước trán rủ xuống, che khuất đôi mắt đen thẳm, long lanh sau làn tóc thưa. Nếu chỉ nhìn qua, không thể đoán biết, đôi mắt ấy đang “nói” về điều gì, không lẽ, đó là thứ vũ khí bí mật của giới phụ nữ? Chưa biết tính nết ra sao, nhưng với cách ăn mặc giản dị như vậy, thấy dễ gần.
Không chỉ mình tôi, cả nhóm đều giật mình, đưa mắt nhìn nhau. Ở trong nhà, có một cô con gái xinh xinh cũng thích. Một bông hồng trong chiến tranh cũng có thể làm nhạt nhoà cảnh bom rơi chết chóc? Điều trở ngại không nói ra, nhưng ai cũng biết, trong sinh hoạt hàng ngày, sẽ có sự khác biệt về giới tính, nhất là cả hai phía, đều còn rất trẻ. Có lẽ Hoè “nhái” hơn chúng tôi ba bốn tuổi, từng trải qua nhiều công việc khác nhau, nên có kinh nghiệm, còn bọn tôi cũng chỉ là lũ “chíp hôi” thôi.
Ban đầu, đôi bên còn giữ kẽ, ít giao tiếp, nhưng mỗi sáng cô lên nhà quét dọn sạch sẽ, lau chùi bàn ghế, nấu nước, rửa chén bát. Dần dà như vậy, quen nhau không còn gượng gạo nữa. Đôi khi còn bông đùa, trêu chọc chút xíu cho vui cửa, vui nhà. Nghiễm nhiên, mọi người coi Tâm như em gái. Tuy nhiên, ý thức về giới tính vẫn có sự cách biệt rõ ràng.
Từ lúc bọn tôi đến ở, tâm trạng của Tâm có những thay đổi rõ rệt. Nhiều lúc đang giặt quần áo ở thềm giếng, Tâm khe khẽ hát. Thật cũng lạ, giọng nói rặt thổ ngữ địa phương, nhưng lời ca y chang tiếng phổ thông “tròn vành, rõ tiếng”, giọng ngọt ngào, khá hay. Việc ăn mặc của Tâm chỉn chu hơn, mỗi ngày thay đến vài bộ quần áo, mặc dù đang thời chiến, mọi thứ còn thiếu thốn, nhưng quần áo Tâm để ý đến nhiều hơn. Việc chăm sóc bản thân, đôi lúc thêm chút son môi, thấy em xinh xắn hơn. Hình như em rất ngại, mỗi lần mặc áo ôm eo, phần ngực nhô cao khiến ai nhìn vào cũng bị cuốn hút, nhưng em lại sợ hãi, đỏ mặt. Tuy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng cũng đoán em chỉ ngại ngần một chút thôi. Thực ra đó là niềm tự hào của phái đẹp, không phải ai cũng có được “khuôn vàng thước ngọc” như vậy đâu. Đôi khi không muốn vậy, nhưng cũng muốn ai đó vô tình nhìn thấy. Âu cũng là mâu thuẫn cố hữu của phái đẹp, không sao giải thích nổi?
Phía sau ba gian nhà chính là hai gian “chuôi vồ”, phía đông dành cho bọ và em trai ngủ. Buồng phía tây là của Tâm, dành riêng một lối đi nhỏ xuống bếp bởi một vách ngăn thưa cho thoáng mát. Mọi sinh hoạt của Tâm gói gọn trong căn buồng ấy, kín mà không phải quá kín.
Một lần giữa trưa mọi người đang ngủ, tôi mò xuống bếp uống nước, đi qua buồng Tâm, nhìn vào ô trống. Tôi sững sờ thấy Tâm nằm ngủ trên giường rất thoải mái. Chắc do nóng quá mà áo cuốn lên tận cằm để lộ khuôn ngực trắng muốt. Thềm ngực và chân vú đẹp mê hồn, đôi bồng đảo tròn trĩnh nhô lên rất ngạo nghễ. Tôi lặng người, bồng bềnh như trôi trên sóng, sống lưng nổi gai ốc. Lần đầu tiên, được chiêm ngưỡng toà tháp trinh nguyên của người con gái đang lớn.
Không dám đứng lâu, sợ Tâm tỉnh ngủ. Còn sợ có người khác nhìn thấy, tôi bỏ cả việc uống nước trở về phản nằm, thổn thức mãi. Hoè “nhái” thấy tôi trăn trở, hỏi:
Bẵng đi một thời gian khá lâu, mới thấy Dì của Tâm đến thăm ông anh rể. Hai người thì thầm điều gì đó, nét mặt rất căng thẳng. Khi bà ra về, tôi hỏi:
Chiều hôm ấy vắng người, tôi đang mải giặt đồ ngoài giếng, bọ gọi Tâm sang buồng của ông. Hai bố con thì thầm gì đó. Ở ngoài giếng tôi không nghe rõ, nhưng bỗng nhiên nghe thấy Tâm oà khóc. Tôi nghĩ, chuyện này có liên quan đến Tâm. Sau đó, cứ vài ba hôm bọ lại gọi Tâm sang nói chuyện. Mỗi lần như thế, đều nghe tiếng Tâm khóc.
Tôi không biết chuyện gì đã xẩy ra, muốn gặp em để hỏi han, nhưng ái ngại vô cùng. Còn em, hễ thấy có người ở nhà, Tâm lại ở lì trong buồng, không muốn tiếp xúc với ai, thậm chí có lúc bỏ cả bữa ăn. Dần dà, Tâm không còn khóc nữa, hình như cô đã cạn nước mắt, lầm lì đến dễ sợ? Còn cha cô lại khóc tức tưởi. Nhìn người đàn ông năm mươi, cứ ngỡ sáu mươi, ngồi bên bậu cửa mếu máo, nước mắt ướt đầm cả ngực áo, trông thật tội quá.
Hoè “nhái” vội vàng thưa:
Tất cả bốn anh em trong nhà sửng sốt, đưa mắt nhìn nhau. Hoè “nhái” lại tiếp:
Hôm sau, Tâm khăn gói lên bà Dì nương náu, căn nhà trở nên vắng lặng. Bọ suốt ngày ra đồng, hình như muốn tránh mặt chúng tôi hay sao ấy? Có thể, trong tâm ý của mình, bọ cho rằng trai gái gần nhau, chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Hơn nữa con gái Tâm hừng hực tuổi xuân, làm sao tránh khỏi. Thỉnh thoảng bọ nhìn Hoè “nhái” như muốn thăm dò…
Trong nhà, có một cô gái chưa chồng lại còn xinh đẹp nữa, bỗng nhiên có “bom” nổ chậm, làm sao bốn thanh niên sống chung trong nhà thoát khỏi nghi ngờ, dị nghị? Cuộc sống đang bình thường như vậy bỗng trở nên ngột ngạt, sợ hãi.
Là người lớn tuổi nhất, Hoè “nhái” “triệu tập” một cuộc họp gấp:
Tôi hỏi:
- Anh Hoè “nhái” nói vậy là có ý gì?
- Trong chúng ta, nếu ai “nhỡ” dính vào chuyện này, nói thật ra, bọ sẽ mở lòng tha lỗi cho. Còn riêng tôi chưa hề động chạm đến người cô ấy, duy nhất một lần xuống bếp, qua ô thoáng thấy Tâm đang thay quần áo…
Hai ông bạn cùng nhóm với tôi, lắc đầu quầy quậy thú nhận giống như anh Hoè “nhái” vừa nói và cũng chỉ dừng lại ở đấy thôi… Tôi thầm nghĩ, thế ra mọi người cũng đã có hạnh phúc, được chiêm ngưỡng một chút thân thể của cô ấy, cho dù nhìn từ xa. Việc này cũng không thể trách Tâm, vì em còn trẻ, vô tư nữa. Hoè “nhái” hỏi:
Mọi người nhìn nhau không biết nói gì, mong sao Tâm làm đúng lòng mình. Giá như mọi người đổi sang ở nhà khác, cách biệt vẫn tốt hơn?
Chừng mấy tháng sau, đột ngột Hoè “nhái” vắng nhà. Giống như các lần trước, có lẽ anh ta xin được phép thủ trưởng về thăm nhà mấy ngày, gặp ai đó nhắn lại, không thì thôi. Lần này cũng vậy, vì vội quá, anh ta quên chăng?
Được ba ngày, bà Lành đi vớt bèo ngoài cánh đồng, vừa chạy về nhà, vừa kêu không thành tiếng:
Tất cả cùng chạy theo hướng tay của bà Lành chỉ. Đến nơi, thấy một người đàn ông nằm lấp xấp trong đám bèo tây. Lật ngửa lên, mọi người hét lên:
Việc Hoè “nhái” đột ngột qua đời, là cú xốc lớn trong cơ quan. Nhiều người tỏ ra thương tiếc, nhưng cũng có người nói rằng chết khi đi làm nhiệm vụ xứng đáng hơn. Vì anh ta không gây thù chuốc oán với ai, chỉ vô tình xẩy ra tai nạn, nên việc điều tra không cần thiết. Đám tang của Hoè “nhái” không được tổ chức rầm rộ, cơ quan chỉ cho phép chôn cất vào lúc chập tối vì phòng không rất nghiêm ngặt. Gia chủ gồm có bọ Tuế và bà Lành, còn lại ít thanh niên trong cơ quan, chủ yếu hai nhóm cán bộ nhà ở gần liền nhau. Ai cũng cho Hoè “nhái” bất ngờ bị trượt chân xuống hố bom rất sâu. Họ chỉ thắc mắc một điều, cả đời Hoè “nhái” lăn lộn với bùn lầy, sông nước, sao không biết bơi? “Sinh nghề, tử nghiệp”, oan ức quá.
Sau vụ Hoè “nhái” mất đúng ba ngày, không biết Tâm nói với bà Dì thế nào, đột ngột, bọ đón con gái về nhà, chăm sóc tẩm bổ cho Tâm rất chu đáo. Tình cảm cha con còn sâu nặng hơn xưa.
Cùng thời gian đó, cơ quan điều chuyển tổ phá bom vào đơn vị phía trong, mấy anh em chia tay gia đình bọ Tuế với một tình cảm sâu nặng, nhưng cũng nhiều đau buồn mất mát. Ra mộ thắp nén nhang cuối cùng cho Hoè “nhái” chúng tôi sững sờ thấy Tâm đang khóc vật vã, đầu tóc rũ rượi. Thấy chúng tôi, cô gào lên như sắp ngất:
Thắp nén nhang, tôi cầu chúc cho anh yên lòng, an nghỉ nơi suối vàng. Anh thật hạnh phúc, khi có một người phụ nữ xinh đẹp, đã coi anh là chồng, suốt đời nhang khói. Anh sẽ có một đứa con ngoan hiền, sắp chào đời. Xin vĩnh biệt anh Hoè “nhái”.
H.B.T
Người gửi / điện thoại