Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân

HÀ NỘI - MỘT THỜI ĐỂ NHỚ

Đỗ Ngọc Yên

HÀ NỘI- MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
 
  Người dân cả nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng vừa mới tưng bừng kỷ niệm 65 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10- 10- 1954 đến 10- 10- 2019) và đang háo hức đón chờ Kỷ niệm 1010 Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội (1010- 2020). Nhiều hoạt động kinh tế, ngoại giao và văn hóa đang hướng về những ngày đại lễ ấy. 
   Nhà thơ, Họa sĩ, Nghệ sĩ nhân dân Lê Huy Quang cũng vừa kịp cho ra mắt tập thơ “Ký ức Hà Nội” (*) (2019) như một bông hoa đẹp góp vào những ngày vui chung ấy. “Ký ức Hà Nội” là một câu chuyện đa thanh, đa sắc, đa chiều kích được kể lại bằng thơ theo cách của Lê Huy Quang, mà ông gọi là “Liên khúc đoản ca”. Theo tôi, đây là một khái niệm mới của Lê Huy Quang. “Liên khúc đoản ca” của ông là một tập hợp những bài thơ ngắn hoàn toàn độc lập với nhau về mọi khía cạnh: từ ý tưởng chủ đề, cấu tứ, giọng điệu, khúc thức, ngôn ngữ và hình thức thể hiên,… được đánh số thứ tự từ I- XXXIX cùng với hai khúc Tưởng niệm I- An Dương 1972 và Tưởng niệm II- Khâm Thiên 1973 nhằm phục vụ cho tư tưởng chủ đề bao quát là “Ký ức Hà Nội”.
  Cũng cần nói thêm rằng, “Liên khúc đoản ca” không phải là trường ca. Bởi lẽ trường ca được hình thành và xây dựng nên dựa trên cơ sở những câu chuyện như là có thật mà cốt của nó gắn thường liền với cuộc đời và sự nghiệp của những nhân vật lịch sử, người anh hùng có công trong quá trình khai quốc, bảo quốc và dựng quốc nên có âm hưởng anh hùng ca và phong cách sử thi cổ đại rất rõ. Trường ca thường có kết cấu chương hồi và liên kết với nhau theo trục thời gian tuyến tính. Còn liên khúc đoản ca lại là những câu chuyện về những con người bình thường trong cuộc sống hàng ngày, mà chúng ta có thể gặp ở bất cứ đâu, lúc nào. Các đoản ca trong liên khúc thường liên kết với nhau theo trục vận động của tâm lý sáng tạo mà phần ưu trội phụ thuộc hoàn toàn vào chiều sâu của ký ức, chứ không phải là chiều dài của sự kiện lịch sử như ở trường ca. 
 
  Có lẽ vì thế mà loại thể này thích hợp nhất để nhà thơ triển khai ý tưởng của mình với quan niệm xuyên suốt và trở thành phong cách thơ của Lê Huy Quang:
“Cuộc đời. Ai nhớ. Ai quên?
Nhưng mà PHẢI KHÁC mới nên CHỮ NGƯỜI”
(Phải khác).
   Ngay ở bài đầu tập thơ Mở ông đã gợi mở cho chúng ta biết khá rõ hình bóng người con gái xưa phải ly hương nơi đất khách, đang được nhà thơ mời gọi trở về Hà Nội hôm nay với bao kỷ niệm tuổi ấu thơ chưa bao giờ phai nhạt:
“em xa Hà Nội từ thuở còn thơ
phố cũ rêu phong im không phai mờhanoitrenkhong
hương hoa sữa thơm tròn năm cửa ô
cánh chim lạc đàn nơi đất khách quê người”
“nhưng hôm nay em về trào nước mắt
Hà Nội mùa xuân mưa bụi trắng trời
ngõ nhỏ nào tóc trái đào em chơi ô ăn quan
gốc sấu chua nào em nhặt quả chin vàng
máy nước đầu hè tán bang xòe nở thiên thanh”
“nay đưa em đi trên đường Nguyễn Du
mà thương một câu Kiều
rẽ sang Hồ Xuân Hương
câu thơ nao nao xưa
em lên Hồ Tây soi mắt gương trong mờ
vòng qua Nghi Tàm, Bà Huyện Thanh Quan/ ngẩn ngơ”
“ta về Hà Nội đi em
như đàn chim ngói bay về làng Vòng hương cốm
như mùa thu trái hồn non mọng
Hoàng Thành rêu phong ngọn cỏ sầu buông”
“Em- về- Hà- Nội- hay- không…”
 
  Có thể nói ai đã từng có những ngày thơ bé sống trên mảnh đất ngàn năm văn hiến Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội này, có những tháng ngày cách xa, dù với bất cứ lý do gì, cũng đều nhớ nằm lòng những danh địa và danh nhân lịch sử có một không hai, đã từng là những nét đặc trưng của Hà Nội mà không phải nơi nào cũng có được. Đối với tất thảy mọi người chúng ta, ra đi không phải là một điều gì quá khó để không thể, dẫu rằng mọi sự ra đi đều không quá dễ dàng. Nhưng ra đi rồi để trở về lại là điều không phải bất cứ ai cũng có thể làm được. Những người con của thủ đô Hà Nội, khi ra đi đều mang theo đầy ắp kỷ niệm của một thời mình đã từng sinh ra và lớn lên ở chốn này. Làm sao những người từng sống ở Hà Nội vào những năm từ đầu thế kỷ XX cho đến sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975) lại có thể quên được:
“… 5 xu cuối cùng trong ngay
nối toa tôi về Ga tàu điện”
“tôi buông em
qua ô kính mờ
giờ này nhà ai chưa ngủ
chợ Đồng Xuân chờ mặt hàng về…”
(I).
Cứ thế và cứ thế, những ký ức về Hà Nội dội mãi vào tâm tưởng của nhà thơ Lê Huy Quang, trải dài toàn bộ 39 đoản ca gói trọn gần 60 trang sách về một “thủ đô yêu dấu một thời đạn bom, một thời hòa bình” đúng như trong ca từ bài hát “Nhớ về Hà Nội” của người nhạc sĩ tài hoa Hoàng Hiệp, một người con miền Nam tập kết, với những tháng ngày đầy ắp kỷ niệm về một Hà Nội, khi ông đã chia xa về lại quê hương miền Nam.
Và cuối cùng dường như nhà thơ Lê Huy Quang muốn kết thúc “Ký ức Hà Nội” ở đoản ca số XXXIX khi ông viết:
“Và sau chót
Ta- cùng- nhau- tìm- lại- những- nẻo- đường”
“chồng chất
những đớn đau
những hy sinh
những được thua
mất mát.”
“Hà Nội- Thăng long
Rồng bay hóa thành Ký Ức
kết áng mây hồng
rạng rỡ suốt ngàn năm.”
 
  Nhưng không, với Lê Huy Quang, người đã sống một cách nhiệt thành và đẫm sâu với Hà Nội trong cả những ngày hòa bình, cùng những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, không và không thể phôi phai một mảng ký ức khác. Đó là ký ức về một Hà Nội trong 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972 với hai điểm nhân là An Dương 1972 và Khâm Thiên 1973. Đấy là nguồn cơn khiến nhà thơ không thể không có hai khúc tưởng niệm này, vừa như là một điểm nhấn quan trọng trong suy tư sáng tạo thi ca của ông, vừa như để tạm thời kết thúc những ký ức của ông về Hà Nội.
“Tia sáng dậy đầu tiên
đánh thức tôi qua khung cửa cháy B52”
“một mảng em trời xanh đông úa
con đường nào ngơ ngác ngang bên”
“Đêm trắng suông về lại An Dương
trắng màu sỏi cát
quán trà em lên đèn
gió mùa đê nghiêng”
“rất nhiều hố bom
rất nhiều nhà ngói mới
rất nhiều cây no trồng
rất nhiều em gái bế con
rất nhiều chon von quá trọ”
“em- chờ- tàu- điện- về- đâu?”
(Khúc tưởng niệm I - An Dương 1972).
Thì hóa ra cô gái bế con chờ tàu điện ấy đang tìm về ngôi nhà của mình bị B52 của không quân Mỹ phá sập ở Khâm Thiên:
“Tôi đang thấy em đi về
nơi mảng tường cháy đen đầu phố
nơi chân cầu thang lửa sém góc nhà
nơi gốc bàng khô úa
 tràn trề tuổi thơ”
“Tôi đang thấy em
soi gương đáy nước hố bom
một cánh hoa đào in bàn tay em nho nhỏ
nơi quân thù vùi em xuống đó
đã chon theo một mảnh tim mình…”
(Khúc tưởng niệm II - Khâm Thiên 1973).  
 
   Còn một ý nữa mà tôi không thể không nói tới ở đây là trở lại bài Mở với một câu kết vừa như câu hỏi, lại vừa như lời mời gọi người con gái: “Em- về- Hà- Nội- hay- không…” Bởi lẽ, một câu hỏi nhưng lại không kết thúc bằng dấu chấm hỏi (?) mà bằng dấu ba chấm (…) thể hiện sự ngập ngừng, lấp lửng của cả người hỏi lẫn người được hỏi, cả người mời lẫn người được mời. Hà Nội là thế đấy sao em lại có thể không về được. Bởi lẽ ký ức muôn đời cũng chỉ là ký ức thôi, những cái đã xảy ra chứ không bao giờ là những cái đang xảy ra, nhưng phần lớn những người có tâm hồn nhạy cảm như nhà thơ nhiều khi người ta sống trong và sống bằng ký ức dù những ký ức ấy là lãng mạn, thi vị hay chua xót, nhói đau, nhưng muôn thuở ký ức bao giờ cũng là những khoảnh khắc đẹp trong tâm hồn mỗi người. Ký ức thường đem đến cho người ta những giây phút thánh thiện, cho người ta được sống với chính mình hơn trước những sự nhiễu nhương, khắc nghiệt của cuộc sống hiện tại mà chẳng ai có thể vượt thoát được, nếu không trở lại với ký ức của mình.
 
   Xin chúc mừng Nhà thơ, Họa sĩ, Nghệ sĩ nhân dân Lê Huy Quang đã có những vần thơ đẹp và khác hiến dâng cho đời trong những tháng năm này.  
 
                                                                 Đ.N.Y
 

 

In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 15
Trong ngày: 254
Trong tuần: 1183
Lượt truy cập: 436485
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0855 890 003 
Email liên hệ: Nhà văn Cầm Sơn: soncam52@gmail.com 
- Nhà Lý luận Phê bình Vũ Nho:  vunho121@gmail.com 
 
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chi hội trưởng.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông
- Cố vấn: Nhà văn, nhà Lý luận Phê bình Văn học - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho.