DUYÊN LỊCH SỬ TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN “MÂY HỒNG”
Nhà xuất bản Thanh Niên, 2023
PGS.TS Vũ Nho
Nhà văn Nguyễn Trường
Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Trường là tác giả của những tập tiểu thuyết khá nổi tiếng
“Hơn cả tình yêu” (1990), “Mộng đế vương” (1992), “Đi qua thời áo trắng” (2023), “Tâm
Linh” (2023). Đồng thời nhà văn cũng là tác giả của các tập truyện ngắn “Thiên nhãn” (1996),
“Khai khẩu” (2019). Trong các tác phẩm trên, có cuốn được tái bản mấy lần. Ông đã từng
đoạt giải Nhất trong cuộc thi truyện ngắn của báo Văn nghệ ( 2015- 2017). Đặc biệt vào
những năm gần đây, truyện ngắn của Nguyễn Trường thường lọt vào top 10 truyện ngắn
hay trong năm của báo Văn nghệ. Điều đó chứng tỏ nhà văn là một cây bút tiểu thuyết và
truỵện ngắn có thương hiệu. Tập truyện ngắn này gồm 12 truyện viết về nhiều đề tài khác
nhau. Cuối tập có bài viết của Lê Thanh Huệ nhan đề “Rành mạch”, bình gía truyện ngắn “Di
cảo của cha”. Có thể chia các truyện thành 2 mảng: viết về cuộc sống hiện tại và viết về lịch
sử, kể cả lịch sử chưa xa lắm. Nhận xét sơ bộ thì ngòi bút của tác giả tỏ ra sở trường về
những chuyện liên quan đến lịch sử. Lịch sử càng xa thì càng thú vị.
Có thể khẳng định không sợ sai chút nào rằng ngòi bút Nguyễn Trường tỏ ra có duyên với đề
tài Lịch sử. Cả trong tiểu thuyết (như Mộng đế vương) và trong truyện ngắn. Tác giả là
người chịu đọc sách sử, vì vậy khi viết Nguyễn Trường có ý thức trao đổi, tranh luận, góp
phần làm sáng tỏ sự thật Lịch sử. Như Lê Thanh Huệ đã nhấn mạnh: “Hãy tạm gác lại tình
cảm với tiền nhân mà mình yêu thương, kính trọng để dùng suy nghĩ rành mạch, xét lại, tìm
ra sự thật, thấy rõ đúng sai; từ đó mới có cơ sở gạn đục, khơi trong trước lúc vinh danh;
khiến cho sự tôn thờ trở nên đúng đắn và được đời sau chấp nhận” (tr.236). Điều đó không
chỉ đúng với truyện “Di cảo của cha” mà đúng với tất cả mảng truyện Lịch sử. Ví dụ trong
truyện “Minh châu toả sáng”, tác giả muốn làm rõ sự thật có phải Lê Văn Duyệt giết oan
Huỳnh Công Lý, Phó tổng trấn thành Gia Định? Người ta nói rằng oan. Vợ thứ của Huỳnh
Công Lý cũng nói rằng oan. Mà nguyên nhân là “Lê Văn Duyệt nghi ngờ tướng công ta trêu
ghẹo phu nhân của Lê Công” (tr.128). Sự thực là thế nào? Truyện lôi cuốn người đọc đến
cuối truyện, người đọc mới ngẫm ra. Cái thời phong kiến ấy vẫn có những ông quan như
Trịnh Hoài Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đình Thịnh và đặc biệt là vua Minh Mạng đã quên
tình riêng, thù oán riêng... đặt đất nước, nhân dân lên trên hết. Họ đúng là “Minh châu tỏa
sáng”. Truyện “Mây hồng” liên quan đến chuyện Nguyễn Du có tác phẩm “Kim Vân Kiều
truyện” khi đi sứ hay trước đó khi Nguyễn Du lang thang ở Trung Quốc? Rồi chuyện mối tình
của Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du khởi thảo viết Truyện Kiều khi nào? Những
vấn đề đó nếu không đọc hàng ngàn trang tài liệu Lịch sử sao có thể đề cập? Dù rằng đây chỉ
là truyện ngắn, chứ không phải tài liệu khảo cứu! Dưới góc độ văn học, Nguyễn Trường cho
là Nguyễn Du viết truyện Kiều khi đang ở trong tù có vẻ Logic. Những tác phẩm lớn ra đời
thường trong giai đoạn đất nước có những khúc quanh đặc biệt. Lúc đó tác giả sống trong
tận cùng của cô đơn, của đau khổ. Phải chăng, Khi nhà văn bị dồn đến tận cùng của bể khổ
dễ có sức sáng tạo phi thường, sản sinh ra tư tưởng lớn? Đặc biệt tư tưởng của Nguyễn Du
“trùng khít” tư tưởng của La Sơn Phu tử, một nhà nho có tư tưởng lớn của thời đại, làm
Nguyễn Du nhận ra con đường mình phải đi. Truyện “ Người viết sử”, nhà văn bàn chuyện
có thật Nguyễn Ánh đến Côn Đảo và hành động của nhà vua với bà Phi Yến liên quan đến
câu ca dao: “Gió đưa cây cải về trời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”? Thông qua câu
chuyện nhà văn Thành Ngọc hư cấu, rồi người ta tin là thực. Thậm chí “lễ giỗ bà Phi Yến vào
danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia”. Những lời đồn đại ngoài chính sử lại được
coi như sự thực Lịch sử…Tác giả Thành Ngọc hối hận vì đã “Nhân danh lòng yêu nước, căm
thù giặc Pháp để viết bài bóp méo sự thật”. Rằng “Văn chương cũng cần sự trung thực”. Nhà
văn Thành Ngọc đã nhắn lại hậu thế khi đã ở thế giới bên kia “Tôi chỉ có ý định viết dã sử,
nhưng không ngờ người đời lại dùng nó để toan tính thay đổi lịch sử”. “Người viết sử phải
trung thực với lịch sử, đó là một bài học của người cầm bút”. Chúng tôi chỉ muốn nhấn
mạnh là tác giả Nguyễn Trường đã tham bác rất nhiều tài liệu liên quan đến quá khứ, đến
các nhân vật Lịch sử để dựng nên truyện ngắn của mình. Truyện “Chuyện trên biển Cần
Giờ”, thông qua vở diễn mà con gái thủ vai Huyền Trân, ông Chế Lan nhận xét: “Vở diễn có
nhiều đổi mới, đã minh oan cho Công chúa Huyền Trân và Thiếu bảo Trần Khắc
Chung…Chuyện Huyền Trân phải lên giàn hoả thiêu cùng chồng theo phong tục Chiêm
Thành chỉ là hư cấu. Huyền Trân không phải là vương hậu chính thức, nên không được lên
giàn hoả thiêu cùng chồng. Vả lại, khi vua Chế Mân chết, hoả táng phải thực hiện trong vòng
bảy ngày. Với phương tiện đi lại thời đó, người Chiêm Thành ra Thăng Long báo tang, Trần
Khắc Chung từ Thăng Long vào, hai bên vừa đi vừa về không thể chỉ trong vòng bảy ngày”
(tr. 167 -168). Một lập luận khả tín cùng với thông điệp đúng cho mọi thời đại “Không được
lấy đất đai đánh đổi bất cứ cái gì”(tr.169).
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn khẳng định không phải ông Dương Văn Minh ra lệnh nổ
súng giết anh em Ngô Đình Diệm, mà thực ra “lệnh đó đã được bàn bạc trong Hội đồng
Quân nhân cách mạng” ( tr.198). Thông qua 2 nhân vật Võ Văn Kiệt và Dương Văn Minh
trong truyện “Điểm gặp Lịch sử, nhà văn cho bạn đọc hiểu đúng hơn về cụ Phan Thanh Giản,
nỗi oan của cụ trong câu ca dân gian “ Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”. Điểm lưu ý
là đối với nhân vật Dương Văn Minh, nhà văn đã hai lần đề cập đến trong 2 truyện “Bữa
cơm chiều ba mươi tết” và “Điểm gặp Lịch sử”,…Đây là nhân vật gần chúng ta nhất, nhiều
người biết rõ về ông, nên không thể “bịa như thật” được! Ông Dương Văn Minh đã tìm hiểu
sâu về cuộc đời và quá trình làm quan của cụ Phan Thanh Giản. Chính cụ Phan đã để lại cho
ông bài học quý giá về lòng yêu nước thương dân. Cụ Phan Thanh Giản khi được triều đình
giao cho chức Kinh lược sứ, cai quản mấy tỉnh miền Tây Nam bộ. “ Biết mình bị mắc mưu
địch, để mất thành, mất đất, có tội với triều đình, với nhân dân, cụ đã uống thuốc độc tự tận
để phần nào chuộc lại lỗi lầm. Là đại tướng cầm quân nên Dương Văn Minh hiểu, nếu cụ
Phan có ra lệnh cho binh sĩ tử thủ thì giữ thành được bao lâu? Rồi bao nhiêu người bỏ
mạng?”. Sau này vào ngày 30/4/1975, với vai trò Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Dương
Văn Minh cũng đứng trước sự lựa chọn: nếu tử thủ Sài Gòn thì sẽ có bao nhiêu người chết,
bao nhiêu thành phố làng mạc bị tàn phá? (Tr. 209). “ Phải theo gương cụ Phan Thanh Giản,
đến phút cuối cùng, cụ Phan vẫn không muốn dân phải đổ máu.” ( tr. 209). Và Dương Văn
Minh đã chọn giải pháp “Lúc quân Cách mạng chưa tràn vào nội đô Sài Gòn, Dương Văn
Minh đã lên đài phát thanh kêu gọi binh sĩ Việt Nam Công hòa không chống cự, ngừng nổ
súng để bàn giao chính quyền cho chính phủ Cách mạng, góp phần giảm đổ máu vô ích cho
người Việt Nam” (tr. 210). Vai trò ông Võ Văn Kiệt, lúc đang làm Thủ tướng, hay lúc làm cố
vấn vẫn quan tâm đến ông Dương Văn Minh, quan tâm đến cụ Phan Thanh Giản “Ông thấy
mình còn nợ các tiền nhân, nhất là nhưng vị yêu nước thương dân mà còn bị oan khuất”.(
tr.206). Có lần ông đã chỉnh lại sự hiểu chưa đúng của ông Minh khi ông chia tay Dương Văn
Minh sang Pháp đoàn tụ với con cái. Phút giây ly biệt, ông Minh xúc động nói với ông Kiệt:
“Tôi cố học cụ Phan mà không được, đã có lúc tôi cũng chuẩn bị chén thuốc độc, nhưng rồi
lại nhát gan không dám thực hiện”. Ông Kiệt sửng sốt: “Hoàn cảnh của ông khác cụ Phan. Cụ
quyên sinh vì thấy mình không hoàn thành nhiệm vụ, để mất đất, mất thành vào tay ngoại
bang. Còn ông đã góp phần cứu Sài Gòn này không bị đổ nát, cứu sinh mạng hàng vạn
người. Nhất là không đưa đất nước lại rơi vào vòng xoáy chiến tranh...” (tr. 211). Dù sao thì
nhân vật Phan Thanh Giản vẫn còn nhiêu tranh cãi đúng sai trong lịch sử, nhưng trong văn
học, cũng nên mở rộng biên độ sáng tạo, nhất là sáng tạo hướng nhân vật đến điểm gặp của
lòng yêu nước thương dân.
Nói tóm lại, xét mặt bằng văn chương truyện ngắn hiện nay, Nguyễn Trường là một
trong số ít các tác giả vẫn giữ được phong độ và thương hiệu của mình. Tập “Mây hồng” ghi
một dấu mốc mới trên hành trình sáng tạo của tác giả, nhất là mảng đề tài lịch sử.
Hà Nội ngày 23/11/2024
Người gửi / điện thoại