Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam & Hội Nhà văn Việt Nam.

ĐỌC THƠ CẢM HOÀI...

Phạm Trọng Thanh
 
ĐỌC THƠ CẢM HOÀI NHỚ CHUYỆN NGƯỜI XƯA
                                                                
Trong Tuyển tập Thơ tình Nam Định thế kỷ XX, nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2001, có in bài thơ Quỳnh Như của Huy Vinh, hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh  với lời đề từ khêu gợi: “Ngồi trên núi Non Nước nhớ chuyện xưa.
“Nước lặng lờ trôi và biển mộng
Non vừa biếc lại nắng quên phai
Thuyền bồng ngồi tựa lan can đó
Phải dáng Quỳnh Như hay dáng ai?...
 
Gương lược bên mình ngại điểm trang
Nàng như tơ liễu lệ ngàn hàng
Thấm vào sông nước nên sông nước
Khóc mãi cùng ai nỗi đá vàng
 
…Non còn đây nước vẫn còn đây
Chưa hết màu non nước đắng cay
Tình sử một thiên lòng vấn vít
Kìa chàng Phạm Thái dốc hồ say”.
                           (Quỳnh Như – Huy Vinh)
        Bài thơ biểu lộ mối cảm hoài man mác của tác giả với thiên tình sử đôi trai tài gái sắc những năm cuối thế kỷ 18: danh sĩ Phạm Thái – tiểu thư Trương Quỳnh Như.
          Phạm Thái, còn có tên Phạm Đan Phượng, tục danh Chiêu Lỳ, sinh năm 1777, quê làng Yên Thượng, huyện Đông Ngàn nay thuộc huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Một “ông Chiêu Lỳ” học rộng, giỏi thi thư, võ nghệ. Cha là Phạm Đạt, một võ tướng cao cấp triều Lê Cảnh Hưng, tước Trạch Trung hầu, khởi binh chống nhà Tây Sơn nhưng thất bại. Phạm Thái nối chí cha, có lần khoác áo nhà sư vào chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh tu hành, âm thầm mưu việc lớn.
 Trương Quỳnh Như là ái nữ của Kiến Xuyên hầu Trương Đăng Quỹ, một đại thần trong phủ chúa Trịnh Sâm nghỉ hưu tại quê nhà, làng Thanh Nê, huyện Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trương Quỳnh Như có người anh trai là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ, làm quan ở Lạng Sơn, một người cùng chí hướng, bạn tâm giao của Phạm Thái.
Trương Quỳnh Như tài sắc vẹn toàn, một trang thục nữ có học vấn, bén duyên thi ca từ tuổi trăng tròn, với những áng thơ Nôm tài hoa, trang nhã:
 
VỊNH GIỜ SỬU
Đằng đẵng canh dài khá cách đêm,screenshot_1977
Đìu hiu giờ Sửu giấc nào êm.
Tiếng hàn châm nện hơi sương lạnh,
Lò hỏa thang nung dạ sắt mềm.
Eo óc giục người gà nội quạnh,
Nỉ non gọi bạn dế bên thềm
Vắt tay ngang mặt nằm mong sáng,
Thấy sáng sầu tư chất chứa thêm.
                             Trương Quỳnh Như
 
SƠN ÂM CỔ TỰ
Thích nhàn từng trải thú sơn hà,
Phong cảnh am mây mới gọi là…
Doành chở bè từ vờn sắc ngọc,
Đỉnh in trăng tuệ tỏ màu hoa.
Véo von kệ sớm câu chim gióng,
Êm ái đàn xuân khúc gió hòa.
Dù chẳng thần tiên nhưng chẳng tục,
Mới hay rằng Phật cũng là ta.
                    Trương Quỳnh Như

Nàng có những lần giả trai, dự những cuộc bình văn trong thi đàn do cha khởi xướng. “Mối tình sét đánh” của hai người xảy ra khi Phạm Thái hộ tống linh cữu Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ về Thanh Nê. Thương tiếc người đồng chí chống nhà Tây Sơn, bị đầu độc, Phạm Thái đã ngăn vợ bạn là nàng Long Cơ toan tuẫn tiết theo chồng, lại soạn Văn triệu linh giúp vợ bạn gọi hồn chồng, làm Văn bia mộ Thanh Xuyên hầu, viết lời Đề nhà Nghĩa Lư, giãi bày lòng thương nhớ bạn.
Cảm mến tài năng văn chương và nghĩa cử của Phạm Thái, Kiến Xuyên hầu Trương Đăng Quỹ lưu chàng ở lại làm gia sư dạy trẻ trong nhà. Và cuộc hội ngộ của cặp đôi uyên ương Trương Quỳnh Như – Phạm Thái cứ như trời định đã khởi đầu rất ấn tượng. Trương Quỳnh Như yêu Phạm Thái tài năng văn chương xuất chúng, diện mạo tuấn tú, chí khí nam tử rõ ràng, hành vi cử chỉ đàng hoàng. Chàng đã lọt vào mắt xanh của nàng. Phạm Thái yêu Trương Quỳnh Như, một trang thục nữ đáng được gọi là “quốc sắc thiên hương” mà chàng có duyên may gặp được. Họ làm thơ xướng họa, trao gửi tình cảm yêu đương qua những bài thơ vượt bỏ khuôn sáo, đằm thắm tình đời. Những tháng ngày luyến ái của họ đẹp như mơ trong một gia đình trâm anh thế phiệt.        
Phạm Thái bày tỏ tình yêu của chàng với Trương Quỳnh Như:

          GỬI QUỲNH HƯƠNG
          Từ lúc thềm cung trộm dấu hương,
          Dễ xui lòng khách mối sầu vương.
          Gió thông réo rắt giong đàn oán,
          Trăng hạnh chênh vênh rọi bóng dương.
          Nếu đã tình duyên run rủi phận,
          Thì xin ân ái vẹn trăm đường!
          Phong lưu đôi lứa đà ai dễ,
          Bụi tục chi cho bợn lóa gương.                                         
Tình cảm của hai người không qua được mắt Kiến Xuyên hầu, thân phụ Trương Quỳnh Như cùng những người trong gia đình. Ông cho mời chàng lên gặp và bảo hãy về quê, tìm người nhà đến đặt lễ dạm hỏi đàng hoàng, tránh những lời đàm tiếu. Phạm Thái hồ hởi nhận lời. Hay tin Phạm Thái sắp về quê, Trương Quỳnh Như không khỏi buồn lo. Nàng làm thơ tiễn người yêu:

TIỄN ÔNG CHIÊU LỲ VỀ QUÊ
Sắt đá lòng này đã biết chăng?
Xe duyên may mượn gió cung Đằng
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui yến cách chừng.
Vàng ngọc nên chăng cùng một ước,
Nước non thề đã có đôi vầng.
Lời này dặn với tri âm nhé:
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng!
                    Trương Quỳnh Như

Lời thơ giao kết đá vàng thắm thiết biết chừng nào. Nhưng có ai ngờ đây là cuộc chia ly mãi mãi của hai người yêu sắp nên vợ nên chồng với một cái kết bi thảm mà đến nay, xa cách hơn hai thế kỷ, nhắc lại thiên tình sử này, lòng ta còn bồi hồi thương cảm.
Trái với người cha quý mến Phạm Thái, người mẹ của Trương Quỳnh Như không tán thành cuộc hôn nhân này. Bà quyết định gả Quỳnh Như cho Trịnh Nhị, một gã trai con nhà giàu trong vùng, học hành dốt nát. Biết không thể nào thoát được cuộc ép duyên này, cũng không thể phụ bạc người yêu, Quỳnh Như đã chọn cho mình cái chết bằng một dải lụa trắng quyên sinh. Gia đình Trương Công ngập màu tang chế bi thương.
Phạm Thái cùng người nhà trở lại Thanh Nê. Chàng vô cùng đau xót khi Quỳnh Như lìa bỏ cõi trần ở tuổi hai mươi. Trước mộ người yêu, chàng vừa khóc vừa đọc “Văn tế Trương Quỳnh Như”, lời lời lệ vương máu nhỏ:
“Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!
Lại có điều đau đớn thế! Nhà huyên có năm có bảy, mà riêng một mình nàng đeo phận bạc thì lửa nguội nước vơi còn có lẽ.
Thương hại thay! Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đóa.
Thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một kiếp người, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược, đỉnh gì không đoái đến chốn phù sinh…”
 Chàng đọc thêm một bài thơ thống thiết khóc Trương Quỳnh Như rồi lên đường. Năm 1801, viết Chiến tụng Tây Hồ phú, phản bác bài Tụng Tây Hồ phú nổi tiếng của Nguyễn Huy Lượng vì bài phú này ca tụng cảnh đẹp Hồ Tây và nhà Tây Sơn. Năm 1804, Phạm Thái viết truyện thơ Sơ kính tân trang (Câu chuyện mới về lược và gương) dài hơn một nghìn câu thể hiện tình yêu của mình với Trương Quỳnh Như. Truyện được khắc họa và hư cấu thêm từ mối tình bi thảm của hai người. Sau tác phẩm này là những bài thơ bất đắc chí trên đường phiêu bạt cô đơn với thơ và rượu. Phạm Thái mất năm 1814, khi mới 37 tuổi.
Có ý kiến cho rằng thơ Phạm Thái tài hoa, ngang tàng, nhiều khi ngòi bút ấy chuyển thành ngông nghênh, bảo thủ, chỉ biết chống lại những điều mà lý tưởng của mình không thừa nhận, không cần biết về khách quan đúng hay sai. Nhưng phần rất quan trọng trong thơ văn Phạm Thái là diễn tả một tâm hồn khao khát yêu đương bất chấp mọi khuôn phép lễ giáo của mình. Về mặt này, “ngòi bút trữ tình, táo bạo trước mọi vẻ đẹp, nhất là vẻ đẹp bên trong con người của ông đã bắt gặp môi trường thuận lợi để phát huy. Bởi vào thế kỷ 18, những yêu cầu về quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc đang dâng lên như một cơn sóng ngầm trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt”.
Về nghệ thuật, Phạm Thái là một trong những người đi đầu trong việc cách tân thể thơ trữ tình tiếng Việt, đưa thể thơ này lên một cung bậc mới.
Đọc bài thơ Quỳnh Như của Huy Vinh, tôi chú ý đến dòng chú thích ở cuối: “Nhớ có lần Phạm Thái và Trương Quỳnh Như đi chơi thuyền dưới núi Non Nước”. Là người con của quê hương Ninh Bình làm công tác văn hóa, chuyên nghiên cứu, sưu tầm. dich thuật, chắc hẳn ông Huy Vinh có đọc một văn bản nào đó viết về chuyến du lịch diễm tình của đôi uyên ương này. Từ đó, dẫn đến mối cảm hoài sâu lắng khi về thăm quê Ninh Bình năm 1970, tác giả Huy Vinh đã lấy bối cảnh ngồi trên núi Non Nước, viết bài thơ Quỳnh Như với hình ảnh hai nhân vật trữ tình nổi danh trong văn học Việt Nam thế kỷ 18: Phạm Thái - Trương Quỳnh Như cùng du ngoạn non nước Ninh Bình trên một con thuyền thơ…
Với danh thắng Ninh Bình, Phạm Thái nhiều lần lui tới, thể hiện trong những dòng lưu bút nồng hậu của thi nhân:
Trải qua Dục Thúy, Thần Phù
Kìa cung Giáng Hạc, nọ chùa Ngự Loan
Sáng Bích Động, tối Tràng An
Có đền Nhị Đế, có hang Cửu Tằng…
Còn Trương Quỳnh Như nhiều lần theo cha du ngoạn, cũng có một “từ khúc” khi lên thăm chùa Dục Thúy Sơn:

          THĂM CHÙA NON NƯỚCchua-non-nuoc-ninh-binh-1-1602
          Trèo lên Dục Thúy thăm chiền
          Non xanh nước biếc cảnh tiên dưới trần.
          Thướt tha mây trắng một làn,
          Như buông bốn phía cánh màn bạch sa
          Chim hót véo von chào khách
          Cỏ thơm hớn hở chào ai,
          Gió thu rung động mấy cành mai
          Khêu gợi hồn thơ lai láng
          Cầm bút đề lên thạch tảng
          Một bài cổ tích cảm hoài
          Nào người quốc sĩ, kẻ văn tài
Khôn hỏi nước non đâu tá…
                    Trương Quỳnh Như

Thiết nghĩ, dẫu không được khắc lên đá xanh vách núi, nhưng đây là những dòng thơ Nôm trân quý của một nữ tác giả cuối thế kỷ 18 tôn vinh non nước Ninh Bình.
Nhấn mạnh tài năng của Phạm Thái, ta không thể quên những bài thơ điêu luyện lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn, dáng dấp một nữ sĩ tài hoa mà bạc phận - Trương Quỳnh Như:
Lời này dặn với tri âm nhé:
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng!...
                                                                                         P.T.T
 
---------------------
Tài liệu tham khảo:
 -Việt Nam văn học sử yếu – Dương Quảng Hàm, Bộ QGGD,1951.
-Văn tế cổ và kim.  Phong Châu – Nguyễn Văn Phú, NXB Văn hóa, 1960.
-Hợp tuyển THƠ VĂN VIỆT NAM, thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Văn học, 1978. -Hương vườn cũ, Quách Tấn, NXB Hội Nhà văn, 2007.
-Các tác giả VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM, Trần Mạnh Thường, NXB Hồng Đức, 2015.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
        
 
 
 
 
 
 
 
 
In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 9
Trong ngày: 10
Trong tuần: 905
Lượt truy cập: 478418
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0855 890 003 
Email liên hệ: Nhà văn Cầm Sơn: soncam52@gmail.com 
- Nhà Lý luận Phê bình Vũ Nho:  vunho121@gmail.com 
 
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chi hội trưởng.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông
- Đồng BT: Nhà văn, nhà Lý luận Phê bình Văn học - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho.