Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân

PHẠM HỒNG NHẬT

Nguyễn Chu Nhạc

PHẠM HỒNG NHẬT,
Từ nhiệt huyết minh họa cuộc sống đến những nỗi niềm cõi nhân gian...

   Tôi biết đến nhà thơ Phạm Hồng Nhật, con người và thơ ông trong một lần gặp tình cờ ở văn phòng của nhà thơ Trần Đăng Khoa tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam. Hôm ấy, Phạm Hồng Nhật và Trần Đăng Khoa nói chuyện về các nhà thơ, nhà văn của vùng đất Đông Bắc một thời với những tên tuổi Trần Nhuận Minh, Lý Biên Cương, Tô Ngọc Hiến, Dương Hướng, Sỹ Hồng, Yên Đức (Quàng Ninh), Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh (Hải Phòng) v.v... Qua câu chuyện, tôi biết được Phạm Hồng Nhật làm thơ khá sớm, cùng thời với Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng, Phạm Doanh và khi ấy đã từng được các nhà thơ đàn anh nổi tiềng là Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông khen ngợi. Vậy có thể xem, Phạm Hồng Nhật sớm thành danh. Trong câu chuyện hôm ấy, Trần Đăng Khoa và Phạm Hồng Nhật còn nhắc đến một kỷ niệm, ấy là trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1971, khi đó, Trần Đăng Khoa mới học lớp 6, kỳ nghỉ hè, ra đất mở chơi thăm người anh trai là nhà thơ Trần Nhuận Minh, rồi mắc kẹt ở đó vì mưa lũ. Trần Nhuận Minh đã gửi Khoa nhờ Phạm Hồng Nhật đưa từ Quảng Ninh về Hải Phòng, tá túc nhà người quen, rồi tiếp chặng nữa từ Hải Phòng về tận quê Nam Sách (Hải Dương). Đường về quê, nhiều đoạn bị lũ ngập nên hai anh em phải dắt xe băng qua những đoạn ngập sâu, Phạm Hồng Nhật dắt xe đạp, còn Trần Đăng Khoa bì bõm tay bám booc-ba-ga lội theo sau. Nhắc lại chuyện cũ, để thấy một thời gian khổ và mối thân tình của các nhà thơ từ ngày ấy.

   Thực tình, trước khi gặp Phạm Hồng Nhật và đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố (Nxb Hội Nhà văn, 2016), tôi không biết gì về thơ ông, mặc dù ông sáng tác và có thơ đăng báo cùng thời với nhiều nhà thơ khác trưởng thành ở vùng đất ven biển Đông Bắc mà tôi biết đến tên tuổi (Trần Nhuận Minh, Sỹ Hỗng, Yên Đức, Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh...).
  Ấy là, Phạm Hồng Nhật sớm bị bứt khỏi vùng đất mỏ sôi động, môi trường sống, làm việc và sáng tác thân thuộc của mình về thủ đô Hà Nội làm công tác quản lý. Ông lạ lẫm và bận rộn với công việc mới, rồi những lo toan chuyện gia đình, nhà cửa mà xao nhãng thơ phú. Quen môi trường mới rồi, cuộc sống lại biến động, khi Phạm Hồng Nhật được điều sang Liên Xô (cũ) làm công tác quản lý cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc cả một vùng rộng lớn thuộc lãnh thổ Ukraina, Vậy là, cả quãng thời gian dài khoảng hai chục năm trời, ông vắng bóng trên thi đàn nước nhà, trong khi các bạn thơ cùng thời với ông ngày nào thì vẫn đều đặn làm thơ, đăng báo, xuất bản tập thơ, thậm chí gặt hái được các giải thưởng thi ca, nâng cấp từ nhà thơ địa phương lên nhà thơ trung ương, được người yêu thơ quen mặt, biết tên. Ngỡ như mất tăm, tắt hẳn một người làm thơ tên Phạm Hồng Nhật. Thì chính ông cũng từng nghĩ vậy, ngay cả khi quãng năm hai nghìn, ông từ nước ngoài trở về Việt Nam sinh sống, làm việc. Phạm Hồng Nhật bảo rằng, nhờ các bạn thơ và người thân động viên đừng bỏ thơ, nên ông sáng tác trở lại. Ông biết ơn bạn bè vì điều này, bởi đã góp phần hồi sinh một nhà thơ tên Phạm Hồng Nhật. Rõ ràng, sự cách quãng môi trường thi ca nước nhà một thời gian dài, đến đầu thế kỷ 21 này, môi trường văn chương, xã hội đã khác nhiều so với thời ông bắt đầu sáng tác vào những năm 70 của thế ký trước, đã khiến ông phải nghĩ khác và viết khác đi...

   Tôi cho rằng, Phạm Hồng Nhật đã may mắn, khi ông có một khoảng thời gian khá dài bứt khỏi môi trường thi ca nước nhà. Đấy là một khoảng lặng cần thiết, đủ để cho riêng Phạm Hồng Nhật, hay chăng mỗi cây bút, không phải vật vã để thoát ra khỏi chính mình? Nghĩ khác, viết khác đi, ấy là quá trình làm mới bản thân, chí ít đúng với trường hợp Phạm Hồng Nhật.
  Mặc dù, tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố, không ghi rõ là tuyển thơ, nhưng nội dung thơ và thời điểm sáng tác các bài cho thấy tính chất tuyển tập. Ở đây, ta thấy các sáng tác của Phạm Hồng Nhật có dấu ấn rõ từng thời kỳ sống, làm việc và sáng tác của ông.

Thời kỳ đầu, có thể xem là vùng đất ươm mầm thơ Phạm Hồng Nhật, ấy là vùng mỏ Quảng Ninh và vùng quê Hải Phòng. Vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, cả một vùng đất duyên hải Đông Bắc tổ quốc (Quảng Ninh, Hải Phòng) là vùng đất công nghiệp sôi động bậc nhất của đất nước. Giới văn học nghệ thuật nước nhà đổ xô đi thực tế, sáng tác về vùng đất này, trong đó, người ta không quên việc tìm kiếm, phát hiện, động viên, giúp đỡ các cây bút trẻ, xuất thân công nhân, người lao động địa phương, sáng tác từ thực tế đời sống ở đây. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, Phạm Hồng Nhật và một số cây bút văn thơ cùng trang lứa đã tập hợp thành dàn đồng ca, với bầu nhiệt huyết tràn trề, mặc sức thi ca minh họa cuộc sống....

   Điểm những bài thơ sáng tác trong giai đoạn đầu trong tập thơ này, khi Phạm Hồng Nhật đang làm việc ở vùng mỏ Đông Bắc, tức là khoảng thời gian những năm sáu mươi, bảy mươi, như Than trên băng chuyền, Thời gian, Thị xã nơi tôi yêu, Về với mỏ, Một mai kia, Mối tình cô thợ hàn, Thợ gò, Trực chiến trên đồi, Nhà máy trong rừng v.v... cho thấy bầu nhiệt huyết mình họa cuộc sông của tác giả. Thơ nặng về kể chuyện, có không khí đấy, song dường như, thơ hết câu thì bài thơ cũng tắt luôn ở đấy, chẳng mấy dư ba. Và điều này, không riêng thấy ở thơ Phạm Hồng Nhật, mà khá phổ biến trong thơ của nhiều cây bút khác cùng thời kỳ.

  Như tôi đã nói, cuộc sống biến động, bứt Phạm Hồng Nhật khỏi vùng sáng tác, khiến ông hụt hẫng, đứt mạch thi ca. Những bươn chải cuộc sống ở thủ đô, rồi sau đó, ông được điều sang nước ngoài làm công tác quản lý nhân sự và tư tưởng, bận rộn và phức tạp, đã ít nhiều làm thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời ở nơi ông. Nói đứt mạch thơ, không có nghĩa là Phạm Hồng Nhật bỏ thơ, thi thoảng. túc tắc, ông vẫn sáng tác. Song ở thời điểm này, ông sáng tác không phải là sự thúc ép từ ý thức mình phải làm thơ để trở thành nhà thơ, hay vì chạy theo thực tế phong trào lao động sản xuất của xã hội, hay chính cả sự ganh đua với các bạn thơ cùng thời ... Phạm Hồng Nhật chỉ sáng tác khi chính lòng mình có tâm sự, muốn được giãi bày. Thế nên, thơ ông sáng tác ờ thời điểm này, ý tứ rõ, hàm súc hơn, câu chữ chắt lọc hơn, và như thế, người ta thấy được sự ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự và thân phận con người trong thơ ông.
Nỗi trăn trở viết khác đi, viết như sự lột xác, làm mới mình được Phạm Hồng Nhật bộc lộ:
Trước ngọn đèn đêm đang về phía sángscreenshot_594
gà nhà ai đã gáy mấy lần rồi
giấy vẫn trắng, bút trên bàn vẫn đợi
chưa tìm ra một câu chữ thơ tôi...
Nhiều lúc nghĩ suy gác bút an bài
lại tiếc muối ra vào bao tư lự
viết là biết gánh vào nỗi khổ
đã buông ra là lại nắm tay vào...
(Trước ngọn đèn)

  Nếu vài chục năm trước, thuở ban đầu làm thơ, viết là niềm hân hoan, thì giờ đây, Phạm Hồng Nhật ý thức, viết như đeo đẳng một nỗi khổ ải. Vậy mà vẫn không thể không viết, ấy là sự chia sẻ nỗi niềm cõi nhân gian, trong đó có thân phận chính mình:
Chén lưng, chén vực cũng là
nửa thì nắng quái, nửa sa bãi bồi
vàng chìm, phận nổi, bèo trôi
dễ đâu thiên hạ một người hiểu ta,
(Uống rượu một mình)

  Quả là, khi cái nhìn đã khác, thì đương nhiên nhận thức cũng khác, ngày cả khi gặp lại cái cũ, cái thân quen:
Thuyền đã khác xưa, ngày để chỏm
lá buồm căng như một sự dối lừa
máy thuyền nổ âm vang là có thật
con đò ngang mái chèo gác trên bờ,
(Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu)

  Bỗng một ngày, Phạm Hồng Nhật nhận ra sự đổi mới trong mình, ông mừng, ngỡ ngàng, như muốn reo lên:
Khác nhiều rồi, tất cả đã khác xưa
và anh nữa khác xa anh thuở trước
cát cứ một vùng như ông Vua một nước
nhìn đám thảo dân như muông thú một bầy
(Đổi mới)

  Sự đổi mới, trước hết là quá trinh tự nhận thức, rổi ra sự nhìn nhận cuộc sống bên ngoài.
Mọi xa xôi hóa nên gần
mọi lớn rộng chỉ ban chân xỏ vừa...
Cuối chiều như tỉnh nhiw mơ
Vừa buông tay sáng vừa quờ đêm đen.
(Cuối chiều)

  Khi ngộ ra điều ấy, thì nhìn vào đâu, người ta cũng thấy được bản chất cùng sự khác biệt trong mỗi sự vật, hiện tượng, và qua đó, thấy được thân phận, nỗi niềm của con người, nó đâu mấy khác nỗi niềm trong lòng ta, nên dễ cảm thông, chia sẻ...
Hương thơm giữa thảo nguyên Nga
mà nghe như thể quê nhà gần hơn
lão nông cày máy nổ ròn
mải mê thu hái cả vòm trời sao
Tuyết rơi trắng phủ hôm nào
đất đồng thành đá cây cao trụi cành
mẹ già tóc bạc như tranh
ngồi bên bếp lửa mong manh gió lùa...
(Bây giờ là tháng năm)
Thân cò, phận hạc cánh chuồn
ở nơi xa xứ ngỡ mòn ngày qua,
thương cho số phận người ta
quay vào thì lụy, bước ra đời tàn,
Phận nghèo bèo bọt thế gian,
chắc là phúc mỏng, Niết Bàn bỏ quên...
Xứ người vận hội mong manh
bao nhiêu ước vọng cũng thành khói sương,
dẫu chưa đến bước cùng đường
nhìn ai trên tuyết mà thương cả mình.
(Phận người xa xứ)
Lạnh dưới bao nhiêu
nóng trên bao độ
chị tôi chỉ biết cầm gậy mò sò...
chị mò đáy biển, mò ngã ba sông
mò mặt trời lặn, mò mặt trăng rơi...
Mò sâu rốn biển, mò chìm lòng sông
chỉ bàn tay biết,
bao nhiêu miệng ăn,
đứa con thất nghiệp...
(Chị tôi đi mò sò)
Ba năm rượu ủ men nồng
mắt lung kinh cả ở trong then cài
kể già những tháng riêng hai
mầm cây ươm cả ở ngoài nắng nôi
Rét gì cái rét trời ơi
mình em cứ việc đi vơi về đầy
khăn ngang ngực lẳng lơ cài
nửa trong rừng rực nửa ngoài bão giông,...
(Gái góa)

   Và nếu không dám nghĩ khác, viết khác lối viết tụng ca hoan hỉ ngày nào, thì chắc Phạm Hồng Nhật chẳng thể buông ra những câu thơ khái quát kiểu này:
Nông thôn mỗi khi qua đò
chờ cho đông khách giả vở quên xu
gà què nhốt trong lồng bu
điềm nhiên ra chợ bán mua đàng hoàng
Nông thôn ngại việc đồng làng
dép lê mũ cối bước sang chợ trời
thiếu tiền đem bán cả người
ai mua tôi bán lấy vài ba xu...
(Nông thôn)
Khom lưng quỳ gối chờ thời
Tù mù lẫn lộn mặt người trắng đen
mặc cho ai đó đêm đêm
thân tàn lặn lội kiếm tìm miếng cơm
mặc bao giọt lệ phơi sương
cửa tòa đầu gối đi mòn nỗi oan...
(Thành thị)

   Đại loại vậy, Phạm Hồng Nhật có nhiều câu thơ khái quát, cảm thông và chia sẻ với những nỗi niềm, thân phận con người...
Phạm Hồng Nhật đã ý thức “viết là biết gánh vào nỗi khổ” mà vẫn viết, vẫn làm thơ, vậy có nghĩa là ông chấp nhận thân phận của người cầm bút hay lo chuyện bao đồng của thiên hạ, tự mình giăng mắc trong cuộc kiếm tìm “tôi lại tìm tôi” như ông tâm sự trong bài thơ Kiếm tìm. Hay đâu, trong bài thơ Đàn bò lạc vào thành phố, được lấy lầm tên cho tập thơ này, Phạm Hồng Nhật đã mượn hỉnh mượn ý để nói tâm sự mình:
Bò vào thành phố bao nhiêu thổ lộ
thay đổi niềm tin, bớt đi nỗi khổ
mắt nai mở tròn, bàn tay vỗ vỗ...
Tôi người xa lạ, lạc vào thành phố,
Giờ ở tuổi bảy, tám mươi, làm thơ khá sớm, bôn ba cũng nhiều, sướng khổ cũng lắm, hiểu trước nhìn sau, Phạm Hồng Nhật đủ độ từng trải, đủ bản lĩnh con người, bản lĩnh thơ để tiếp tục chia sẻ những nỗi niểm buồn vui, đau khổ của cõi nhân gian. Phạm Hồng Nhật nhắn nhủ và cũng là tự nhủ:
Đời người như dòng sông trôi ấy
khúc ngoặt khúc cong tối mặt mày,
nước xanh đường rộng trời cao thẳm
thì có bao giờ buồn chán. Tôi...
(Ngõ nhỏ vòng vèo)

  Bài thơ Tờ lịch của ông như một tuyên ngôn cho mình:
Mỏng tang tờ lịch trên tay
chỉ bao la là lấp đầy khoảng không
lật sang tờ lịch ngày hồng
nghe thời gian rỗng ở trong gió lùa
Bạc đầu lại nhớ ngày xưa,
tuổi xanh nghĩ đến tóc vừa hoa râm
Bao nhiêu tờ lịch trong năm
biết bao tờ lịch nằm trong tro tàn.
Câu kết bài thơ này là một sự khái quát về thời gian của đời mỗi con người ta. Với nhà thơ Phạm Hồng Nhật, hành trình đi qua những tờ lịch đã rơi và những tờ lịch còn chưa bóc, cùng với niềm vui gia đình cùng con cháu, ông vẫn còn nguyên đó niềm đam mê với thi ca,...

                                                                                           N.C.N


Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Quảng cáo
congnhan12345
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 6
Trong ngày: 6
Trong tuần: 452
Lượt truy cập: 381397

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN ĐÃ GIỚI THIỆU!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH, NHÀ VĂN CẦM SƠN! RẤT NHIỀU BỨC ẢNH CỦA NGÀY HÔM ĐÓ ĐÃ CÙNG VỚI BÀI NÓI CỦA TÔI LÀM NÊN KHÔNG KHÍ TƯƠI VUI, HÀO HỨNG CỦA BUỔI RA MẮT SÁCH! CHÚC MỪNG NHÀ THƠ LÊ TUẤN LỘC!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CHÚC MỪNG TS NHÀ THƠ LÊ TUẤN LỘC VỚI TẬP THƠ ĐỘC ĐÁO, IN ĐẸP!

 

VŨ NHO 085 589 0003

BÁI PHỤC BÀ MÂY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Thuộc loại "chuyện bây giờ mới kể" đây! Cám ơn tác giả! Mượn lời bà SUỐI để nói về bà MÂY: "Bái phục bà MÂY" ! Haiza!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN VÀ BAN BIÊN TẬP ĐÃ ĐĂNG BÀI VIẾT NHÂN DỊP NHÀ THƠ NGUYỄN HUY HOÀNG RA MẮT TUYỂN THƠ VÀ TRUYỆN KÍ TẠI HỘI TRƯỜNG HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM!

 
Xem toàn bộ
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0964 131 807
Email: soncam52@gmail.com
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chủ tịch Chi hội Nhà văn Công nhân.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông Chi hội Nhà văn Công nhân.