Điện thoại: 0913 269 931 - Zalo: 0964 131 807 - Email: soncam52@gmail.com.
12342345456734565678
Chào mừng bạn đã đến với trang Điện tử "Văn nghệ Công nhân" của Chi Hội Nhà văn Công nhân

BÍCH KHÊ

Nguyễn Thanh Tâm

TIẾP NHẬN BÍCH KHÊ QUA MỘT TRĂM NĂM

                                                                      Sau nghìn thu nữa trên trần thế
                                                                      Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi
                                                                              (Lời tuyệt mệnh – Bích Khê)
  • Dẫn nhập

    Bích Khê (1916 - 1946) là một thi sĩ phóng túng, tài hoa, đau thương và yểu mệnh. Cuộc đời Bích Khê bảo chứng cho sự “dấn thân”, tận hiến đối với nghệ thuật. Dồn cả “Tinh huyết”, “Tinh hoa” vào thơ, trút cả linh hồn và lệ ngọc cho thơ, Bích Khê đã thực hiện hành trình đến ước mơ của mình một cách đầy quyết liệt. Là một “nhà thơ phi thường”, một “thi sĩ thần linh”, một đỉnh cao của dòng thơ tượng trưng Việt Nam, Bích Khê đã được nghiên cứu, tiếp cận từ nhiều góc độ với lịch sử tiếp nhận lâu dài. Lịch sử tiếp nhận, trong ý nghĩa của nó là lịch sử tồn tại của hiện tượng văn học, là số phận của tác giả, tác phẩm. Với tầm vóc của Bích Khê, bản thân lịch sử tiếp nhận đã là một vấn đề rất lớn, đòi hỏi cái nhìn bao quát, xuyên suốt. Trong tiểu luận này, với việc khảo sát lịch sử tiếp nhận Bích Khê, chúng tôi muốn xác lập một điểm nhìn về thi sĩ thông qua con mắt của giới nghiên cứu và công chúng văn học, cũng từ đó nhìn nhận và đánh giá thoả đáng hơn những thành tựu, hạn chế của việc nghiên cứu Bích Khê.

   Sáng tạo, tiếp nhận và những điều kiện tồn tại của một hiện tượng văn học nghệ thuật, về bản chất, có cùng điểm xuất phát, song hành, tương hỗ với nhau. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, trong những không gian, điều kiện lịch sử xã hội, tri thức, tư duy khác nhau, mỗi thành tố trong hệ thống: người sáng tác – văn bản – người đọc, cùng các thiết chế có liên quan được nhận ra hoặc quan tâm với những mức độ khác nhau. Vì thế, lịch sử văn học phải được xem là lịch sử của quá trình vận động, dịch chuyển những mối bận tâm, suy tư về/của văn học trên bình diện tổng thể. Khi H.R. Jauss nhận định: “Lịch sử văn học là lịch sử của quá trình tiếp nhận và sáng tạo…”1, ta hiểu rằng ở đó hàm chứa một quan niệm linh hoạt về lịch sử văn học, không chỉ là các sự kiện văn học – “các con voi trắng”2. Hành trình của tư duy lý luận văn học từ tiền hiện đại đến hiện đại, hậu hiện đại được bổ sung những phương diện nhận thức mới về lịch sử văn học gắn với bước đi của lý thuyết tiếp nhận, khả năng và thực tiễn ứng dụng, tạo điều kiện cho diễn giải làm nên số phận của tác giả, văn bản, và lịch sử văn chương, nghệ thuật. Chính vì thế, nghiên cứu sự tiếp nhận, từ trong bản chất là nghiên cứu sự nghiên cứu không tách rời những tham chiếu từ chính tác giả (nhà văn), văn bản, cộng đồng, thời đại và những thành tố liên quan khác cùng quá trình vận động của chúng. Từ tinh thần làm việc đó, trước đối tượng là lịch sử tiếp nhận Bích Khê (100 năm, bao gồm tất cả các vấn đề liên quan, vì điều này, chúng tôi gọi là lịch sử tiếp nhận Bích Khê thay vì tiếp nhận thơ Bích Khê), gắn với những sự kiện, biến cố của bản thân tác giả và lịch sử đất nước, chúng tôi chia thành 3 giai đoạn: trước 1945, 1945 – 1975 (giai đoạn này phân thành hai khu vực tiếp nhận: Miền Bắc và Miền Nam), sau 1975.

  • Tiếp nhận Bích Khê trước 1945

   Dư luận về Bích Khê trước 1945 có thể tìm thấy trên báo chí đương thời. Từ một chỉ dẫn của Hàn Mặc Tử trong lời tựa tập Tinh huyết3, Lại Nguyên Ân đã tìm lại những tác phẩm của Bích Khê đăng trên nhật báo Tiếng dânTiểu thuyết thứ Năm4. Ngoài việc đăng thơ Bích Khê (thơ cũ, nhưng ẩn chứa những ngông nghênh, phá cách), trên Tiếng dân còn có những bài hoạ, đáp lời, khởi phát từ việc đọc thơ Bích Khê. Từ 1936 đến 1939, Tiếng dân đăng 7 bài thơ của Bích Khê và có 2 bài hoạ lại, tỏ thái độ phê phán, dị ứng với thơ Bích Khê. Lại Nguyên Ân cũng suy đoán rằng, từ 1937 – 1938, Bích Khê không được đăng bài nào trên Tiếng dân có lẽ vì lối thơ của tác giả dễ gây va chạm với tinh thần của tờ báo này. Cũng từ hiện tượng Bích Khê đã nổ ra cuộc tranh luận giữa một bên là Phan Khôi (trên Dân báo) và bên kia là những thế lực bênh vực thơ cũ (Minh Viên, Chuông Mai – trên Tiếng dân). Khi phụ trách mục “Chuyện hàng ngày” của Dân báo, Phan Khôi (bút danh Thông Reo), phê phán thơ Bích Khê, xem đó là “một tai nạn của văn học”, “chẳng có nghĩa gì cả”5. Phan Khôi chỉ nói về trường hợp Bích Khê, nhưng Tiếng dân đã vin vào đó, cho rằng Phan Khôi – tướng tiên phong của Thơ mới, đã “trở cờ”. Liên quan đến việc này, đôi bên lời qua tiếng lại, thanh minh, “đính chánh” suốt mấy kỳ6.

   Sinh thời Bích Khê cộng tác với Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Công luận, Phụ nữ tân văn, Đông Pháp, Người mới, Tân văn,… Trên Tiểu thuyết thứ Năm có “lời dẫn nhập của Lê Tràng Kiều” nhân đăng bài thơ “Hoàng Hoa”, xem những bài thơ của Bích Khê như “Hoàng Hoa”, “Tỳ bà”, “Nghê Thường” là “rất êm rất nhẹ”, “ngọc ngà châu báu”7. Cũng trên báo này, Lê Tràng Kiều phê Thế Lữ bắt chước thơ bình thanh của Bích Khê một cách vụng về. Làm theo lối thơ của Bích Khê, Thế Lữ chỉ là “anh thợ vẽ” không phải là “nhà hoạ sĩ”8. Trên báo Công luận, Vân Hạc đánh giá hai bài “Vịnh đèo Hải Vân” của Bích Khê là “đáng truyền tụng”; “lời thơ thanh thoát, điệu thơ êm ái, khí thơ nhẹ nhàng, tứ thơ dồi dào mà không lộn xộn”9.

   Được “hoan nghênh” về thơ cũ, nhưng dấn thân thực sự của Bích Khê chính là Thơ mới với tập Tinh huyết (1939). Cú sốc tinh thần được cố tình gây nên bởi Hàn Mặc Tử chính là ngòi nổ để khai phá nguồn năng lượng thơ tiềm chứa trong con người thi sĩ. Tinh huyết ra đời đúng như tên gọi của nó là chót đỉnh của sự sống, chất sống ngưng kết, hòa huyết vào thơ. Hàn Mặc Tử đã viết lời tựa cho tập thơ này trong tâm trạng tột cùng sung sướng vì đã tìm thấy bậc “thần linh” trong thi giới: “chàng đã viết bằng máu huyết tinh tủy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ”10. Trong bài viết này, Hàn Mặc Tử đã chia thơ Bích Khê thành “ba tính cách khác nhau”: thơ tượng trưng/ thơ huyền diệu/ thơ trụy lạc. Địa hạt nào Bích Khê cũng đều phát tiết hết tinh hoa và tinh huyết của mình. Bởi lẽ, “Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì thực tế trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu…”11. Bích Khê, thi si tượng trưng, huyền diệu, ái tình, truỵ lạc, tôn giáo, âm nhạc, cổ điển và hiện đại, phương Đông và phương Tây, những dấu vết ảnh hưởng của S. Baudelaire,… chính là những điểm quan trọng trong sự đánh giá của Hàn Mặc Tử về thi sĩ “Núi Ấn sông Trà”. Đó vẫn là những luận điểm cốt lõi mà người đi sau tiếp tục triển khai, khám phá. Tập Tinh huyết còn có lời Bạt của Hoàng Trọng Miên. Trong bài này, Trọng Miên đã say sưa ca tụng vẻ đẹp tân kỳ, hơi hám dị kỳ, giọng điệu đau thương, tuyệt vọng, oán hận điên cuồng trong Tinh huyết. Những “đứa con cưng của địa ngục” ngước nhìn bầu trời trong niềm ước ao thiêng liêng, “khơi mạch thơ ở những cái gì sáng láng thanh cao”12.

   Sau bài viết của Hàn Mặc Tử, có lẽ cần phải điểm đến ở đây bài viết của Hoài Thanh – Hoài Chân về Bích Khê trong Thi  nhân Việt Nam (1942). Trong bài viết này, tác giả Thi nhân Việt Nam đã thành thực nêu lên ấn tượng của mình: “Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam… Tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân. Tôi thấy trong đó có những câu thơ thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa… Còn các bài thơ khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thi cũng như chưa đọc”13. Ấn tượng ấy, cho đến nay vẫn ám ảnh những người nghiên cứu Bích Khê.

   Tinh huyết ra đời, có thể xem là một đoá đau thương nở trên ngày tháng thanh tân, hoan lạc, bi ai của Bích Khê. Xung quanh thi phẩm này, ngoài bài tựa xuất sắc của Hàn Mặc Tử, lời bạt say sưa của Trọng Miên, phần bình luận đầy nhạy cảm của Hoài Thanh – Hoài Chân, dư luận đương thời còn có bài của Phó Xuyên Hà Xuân Tế trên báo Tràng An, xem đó là “sự truỵ lạc của văn chương”14. Kiều Thanh Quế trên Tri tân – “Nhân đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân”, tỏ thái độ ngạc nhiên khi tác giả Thi nhân Việt Nam vốn là người tinh tế, có khả năng thẩm định văn chương lại “thiếu sáng suốt” đến thế khi đi ca ngợi thơ Bích Khê. Kiều Thanh Quế cũng phê phán thơ Bích Khê là “sai luật thơ Pháp”, “Bích Khê không hiểu luật thơ”, “rời rạc, vấp váp”15. Từ góc độ “mỹ từ pháp”, Vũ Bội Liêu trên báo Thanh nghị cho rằng: “Tiếng đàn réo rắt trong khúc Tỳ bà của Mộng Thu, một bài thơ êm dịu cả tâm hồn. Thi si đã tìm được một nhạc điệu mới lạ bằng cách dùng rặt vần bằng trong suốt bài thơ”16. Trong khảo luận Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại (1942), Bích Khê cũng được nhắc tới như là một hiện tượng được Hàn Mặc Tử đặc biệt đề cao17.

   Những khó khăn trong việc tìm kiếm, khảo sát tư liệu đương thời khiến cho những nhận định về lịch sử tiếp nhận Bích Khê giai đoạn này cần phải thận trọng. Tuy nhiên, với những cứ liệu có được trong tay, chúng tôi cho rằng, tiếp nhận Bích Khê giai đoạn trước 1945 còn chưa xứng với tầm vóc của tác giả. Lý do có thể là ở thời điểm đó, những hiện tượng như Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên quá lạ lẫm với công chúng. Cùng với đó, cũng chưa có nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đủ “kinh nghiệm thẩm mỹ” hay công cụ để tiếp cận một cách đầy đủ với Bích Khê. Phan Khôi – vốn là người tiên phong làm Thơ mới, cổ suý cái mới lại dị ứng với Bích Khê hay sự phê phán của Hà Xuân Tế, Kiều Thanh Quế, của Dân báo,… cho thấy giới hạn của thời đại trong việc tiếp nhận Bích Khê. Mặt khác, đặt Bích Khê trong không gian văn chương, báo chí, xã hội Việt Nam thời kỳ 1932 – 1945, có thể thấy hệ giá trị, thị hiếu thẩm mỹ của thời đại, của công chúng dường như cũng chưa thực sự ủng hộ thi sĩ. Ở góc độ truyền thông, báo chí đương thời chạy theo lợi nhuận, đáp ứng thị hiếu, tâm tính của độc giả vốn đang trong quá trình chuyển hoá sang tư sản, tiểu tư sản, trung lưu thành thị ngày càng ưa chải chuốt, lãng mạn… nên những tác phẩm giàu tính tượng trưng như thơ Bích Khê cũng khá khó khăn trong việc đến được với công chúng. Tập Tinh huyết dù được Tiểu thuyết thứ Năm quảng cáo, nhưng chúng ta chưa có dữ liệu để có thể tiến hành một phân tích xã hội học từ diễn ngôn quảng cáo này. Trở lại, chú ý đến những luận giải thấu tình đạt lý về một hiện tượng văn học, có thể nói, bài tựa của Hàn Mặc Tử là một thành tựu quan trọng trong lịch sử tiếp nhận Bích Khê giai đoạn trước 1945. Cùng với những ý kiến, nhận định khác, dù khen hay chê, tất cả đều tạo nên những tiền đề cần thiết cho quá trình tiếp cận Bích Khê sau này.

  • Tiếp nhận Bích Khê giai đoạn 1945 – 1975890de2b8-65a0-4d4f-9b57-e3ef2a6352d4
  • Tiếp nhận Bích Khê ở Miền Bắc

   Ở miền Bắc giai đoạn 1945 – 1975 không có công trình cụ thể nghiên cứu về Bích Khê. Nghiên cứu về Thơ mới cũng khá hạn chế. Một số bài của Hoài Thanh18, Xuân Diệu19,… nhắc đến Thơ mới như là một ký ức đau buồn, lầm lỗi, cần phải thanh lý. Công trình bề thế, chuyên sâu nhất thời kỳ này là Phong trào “thơ mới” (1932 - 1945) của Phan Cự Đệ xuất bản lần đầu tiên năm 1966. Trong công trình này, Bích Khê luôn được nêu lên với tư cách là tác giả tiêu biểu cho thứ thơ “suy đồi”, “truỵ lạc”, “kín mít”, ca tụng thân xác, chạy theo thị hiếu rẻ tiền, tầm thường,… Nghiên cứu “lịch sử phát triển và suy đồi của Thơ mới”, Phan Cự Đệ chỉ ra, những tác phẩm như Đau thương (Hàn Mặc Tử), Xác thu (Hoàng Diệp), Tinh huyết (Bích Khê), Thơ say, Mây (Vũ Hoàng Chương), Kinh cầu tự, Vũ trụ ca (Huy Cận)… là dấu hiệu thời kỳ suy đồi của Thơ mới20. Đó là một thứ thơ suy đồi, “chạy theo những quan niệm thẩm mỹ suy đồi của phương Tây”21. Phan Cự Đệ cũng chỉ ra chỉ ra: “Về phương diện nhạc điệu, Bích Khê gần với Bô đơ le hơn”22. Cũng trong công trình này, Phan Cự Đệ phê phán các nhà nghiên cứu miền Nam “ca ngợi những bài thơ suy đồi, truỵ lạc của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,…”23. Ông cũng cho rằng họ đã áp dụng những “phương pháp nghiên cứu rất cũ kỹ, lạc hậu”24, hoặc sa vào thực chứng, hoặc sa vào duy tâm, có nghiên cứu lại khai thác những chuyện đời tư vụn vặt của Bích Khê, Hàn Mặc Tử để câu khách,… Đối với những nghiên cứu ở miền Bắc, bên cạnh những phê phán tiêu cực, bài viết của Hoài Thanh hay công trình của Phan Cự Đệ, hồi ức của Xuân Diệu cũng đã chỉ ra những mặt “tích cực” của Thơ mới như: yêu nước, yêu dân tộc, phủ nhận thực tại đen tối,  yêu cuộc sống, yêu ngôn ngữ,…

  • Tiếp nhận Bích Khê ở miền Nam

    Ở miền Nam, do những điều kiện xã hội, văn chương, báo chí, phong trào thơ mới được tiếp nhận tương đối thoải mái. Với trường hợp Bích Khê, dư luận miền Nam đã có những quan tâm khá phong phú. Cùng với việc giới thiệu lại những bài viết từ trước 1945, những nghiên cứu mới cũng bắt đầu xuất hiện. Đáng chú ý là cuốn sách Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam 1932 – 1962, của Minh Huy25. Tác giả cho rằng, Bích Khê cùng với Hàn Mặc Tử là “hai nhà thơ lý thuyết”26. Nhận định, thẩm mỹ quan của Bích Khê đã khác hoàn toàn với Thế Lữ, Xuân Diệu, tác giả cuốn sách cũng xác định, Tinh huyết ra đời “cái thẩm mỹ quan của khuynh hướng tượng trưng trong thi ca Việt Nam mới thành hình rõ rệt”27. Trong cuốn sách này, Minh Huy cũng bàn về vấn đề nhạc, hoạ trong thơ Bích Khê, so sánh giữa Bích Khê và Hàn Mặc Tử. Theo đó, giữa hai thi sĩ này, họ khác nhau về đức tin. Hàn Mặc Tử tin vào Thiên Chúa Giáo còn Bích Khê gần Phật và Lão Trang28. Dẫu thế, với Hàn Mặc Tử và Bích Khê, “thơ tượng trưng Việt Nam đã đến một độ cao tuyệt vời, đến một nơi thật cao siêu và khả kính”29. Dù không có nhiều khám phá đặc sắc, căn bản vẫn dựa trên những phác thảo trong lời Tựa tập Tinh huyết, Nguyễn Tấn Long trong công trình Việt Nam thi nhân tiền chiến vẫn đem đến những cảm nhận về một Bích Khê thi sĩ của thanh cao và sắc dục, của đau thương và tội lỗi, của thanh âm và hình nét, thi sĩ của những đắm đuối cả tâm hồn và thể xác30. Sắc thái tượng trưng trong thơ Bích Khê được bàn luận kỹ hơn trong bài viết Bích Khê và thơ tượng trưng của Tam Ích. Điểm đặc biệt trong bài viết của Tam Ích là ông cho rằng, Hàn Mặc Tử và Bích Khê là “hai người thơ tượng trưng và gần như không vay mượn của chân trời mới Âu Tây một mẩu âm thanh nào”31. Thơ tượng trưng của Bích Khê, trong cảm nhận của Tam Ích là nguồn tượng trưng “đầy nhạc tính Á Đông”32. Rất đáng chú ý trong những nhận định về Bích Khê giai đoạn này còn có bài viết Tiếng thơ Bích Khê của Đinh Hùng. Chỉ với vài trang ngắn ngủi, nhưng Đinh Hùng đã chạm được đến cõi giới “Tinh huyết”, “Tinh hoa” của Bích Khê, như cái cách mà Hàn Mặc Tử đã khải thị khi viết Bích Khê – thi sĩ thần linh. Giữa những linh hồn siêu thoát, những cá tính độc đáo, dị biệt dường như có một mối thần cảm nào đó. Đinh Hùng nhận thấy ở Bích Khê một “Thiên tài” đã “sống những giây phút mạc khải tuyệt vời” và thơ là khoái cảm của đớn đau, ái tình, đẹp, mộng ảo, “tổng hợp giữa vô vàn chất liệu tinh tuý”33. Nhưng có lẽ, kinh hãi nhất chính là Đinh Hùng cảm nhận được một thứ “sinh khí ngùn ngụt tưởng chừng như có thể mọc lên da thịt thực sự” trong thơ Bích Khê. Một nhận định đúng với Bích Khê và đúng cả với cốt cách của Đinh Hùng.

    Ở cấp độ Tạp chí, đáng chú ý và phong phú nhất trong việc nghiên cứu Bích Khê có lẽ là hai tờ tạp chí Văn, Văn học xuất bản ở Sài Gòn. Tạp chí Văn, số 64, ngày 15/8/1966 với các bài viết: “Đôi nét về cuộc đời Bích Khê” (Quách Tấn, trích từ Đời Bích Khê, Lửa thiêng, 1971), “Bích Khê có khuynh hướng chính trị không/ Nhân nhớ Bích Khê và thơ Bích Khê bàn về thơ tượng trưng” (Tam Ích – trích lại từ Ý văn I), “Người em Bích Khê” (Lê Thị Ngọc Sương), “Thu Xà và phần mộ Bích Khê/ Nhạc và Họa trong thơ Bích Khê” (Đinh Cường), “Bích Khê – Thi sĩ thần linh” (in lại, Hàn Mặc Tử), “Lời Bạt tập Tinh huyết” (in lại, Hoàng Trọng Miên). Bài của Đinh Cường đánh giá thơ Bích Khê đó là thứ “thơ của muôn đời”, thể hiện được vẻ đẹp cao kỳ của âm thanh, nhạc điệu, hình ảnh và màu sắc. Thơ Bích Khê “lấy tất cả những nhạc điệu, màu sắc để diễn tả những lời tâm sự sâu kín của linh hồn”34. Tạp chí Văn, số 66, ngày 15/9/1966 có bài của Ngọc Sương: “Nhân đọc bài hồi ký của anh Hồ Hữu Tường”. Đáng lưu ý trong bài viết này, từ hồi ký của Hồ Hữu Tường, Ngọc Sương đã công bố thêm những thông tin về bốn cuốn tiểu thuyết của Bích Khê chưa in, bị người anh đốt bỏ trong loạn lạc. Như thế, di cảo của Bích Khê đáng lẽ ra còn tầm vóc hơn những gì chúng ta đã biết35. Tạp chí Văn học, số 194 (chuyên đề về Bích Khê), ngày 20/11/1974, ngoài lời giới thiệu, phần hồi ức của Quách Tấn (Những cuộc tình duyên của Bích Khê – rút từ Đời Bích Khê), Lời tựa của Hàn Mặc Tử cho tập Tinh huyết (Bích Khê – nhà thơ thần linh), tạp chí lần này có bài của Phạm Hòa Việt: Bích Khê: Dòng thơ, Khoảng thơ và Thời gian. Bài viết của Phạm Hòa Việt trích từ tập tiểu luận: Bích Khê – Những vùng mộng mơ diễm tuyệt (thông báo sẽ đăng nhưng không thấy được công bố, có lẽ sau đó chiến tranh kết thúc). Trong bài viết này, áp dụng phương pháp giảm trừ hiện tượng học, tác giả đề cập đến “thời gian tính” như là một hữu thể có căn nguyên từ hư vô. Bích Khê làm hiện hữu thời gian tính đó trong thơ, nối hư vô với hiện hữu. Dòng thơ, khoảng thơ chỉ là những cầu nối của Bích Khê để đi đến vùng diễm tuyệt – mỹ thể - Cái đẹp, cái buồn, cái cô đơn và khát khao tuyệt đối. Bởi, mỹ thể không bao giờ thi sĩ có thể chạm tới, nên thi sĩ cứ phải rong ruổi đi tìm, triền miên, vĩnh viễn. Thời gian tính hiện hữu trong những “biến cố”. Mỗi biến cố chứng thực một lần đến, “gặp nhau”, “nhận diện”, “chia tay”, “cách xa” và “vĩnh biệt”36. Trong số đặc biệt này còn có bài của Lê Huy Oanh - Tinh huyết của Bích Khê. Đánh giá đây là một trong những tập quan trọng nhất của thi ca tiền chiến, Lê Huy Oanh nhận định Tinh huyết có 3 đặc điểm nổi bật: 1. Thơ Bích Khê đầy hương vị thơ tượng trưng/ 2. Thi vị hóa và thanh khiết hóa nhục dục cũng như cái đẹp nhục thể/ 3. Vươn tới những cõi siêu thiêng huyền diệu. Nhận định đây là một tập thơ điển hình nhất của Thơ tượng trưng Việt Nam, Lê Huy Oanh tiến hành phân tích: Biểu tượng, Nhạc tính, Sức gợi cảm của thơ, Nhục cảm trong Tinh huyết, Siêu tính trong Tinh huyết37. Số tạp chí này, đích danh Phan Kim Thịnh (Người chủ trương và quản lý tạp chí Văn học) viết bài Thế giới tượng trưng Bích Khê. Điểm nhấn và luận điểm cốt lõi của Phan Kim Thịnh là phân tích sự “lầm lẫn cảm giác” của người đọc khi lạc vào thế giới Tinh huyết38. Sự lầm lẫn đó kỳ thực chính là sự tương giao các giác quan mà thơ tượng trưng xem như là một nguyên tắc sáng tạo.

    Ngoài các số tạp chí chuyên đề về Bích Khê, rải rác trong những số Văn học khác có bàn về “buồn và nhớ” của mùa thu trong thơ Bích Khê39, sự ảnh hưởng của Bích Khê đối với Baudelaire từ khía cạnh sắc dục, rượu, thuốc phiện40. Đến Văn học số 196, ngày 20/12/1974, chuyên đề về Hàn Mặc Tử, có bài của Châu Hải Kỳ: “Nhân đọc “Đời Bích Khê” của Quách Tấn rút vài hình ảnh về Hàn Mặc Tử”. Ngoài việc thừa nhận “thơ Bích Khê quá cao kỳ” và cho rằng “chưa đọc được vị nào nhận xét thơ Bích Khê đặc sắc hơn Hàn Mặc Tử”, Châu Hải Kỳ còn bày tỏ sự nghi ngờ về tính sòng phẳng của cuốn Ngày đó có em (Đinh Hùng) với cuốn Đời Bích Khê (Quách Tấn). Hai tác giả này đều mượn tài liệu về Bích Khê từ Ngọc Sương, thế nên có nhiều điểm tương đồng41.

    Có thể thấy, do những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hoá và văn học khác nhau, tiếp nhận Bích Khê ở hai miền Nam Bắc thời kỳ 1945 – 1975 có những khác biệt. Ở miền Bắc, do những nhiệm vụ trọng đại khác, Thơ mới nói chung và Bích Khê nói riêng chưa có điều kiện quan tâm một cách thoả đáng nên thành tựu còn khá sơ sài. Ở miền Nam, dù được tiếp cận khá phong phú, nhưng nhiều vấn đề về Bích Khê cũng mới chỉ được khai mở hoặc còn bỏ ngỏ. Sự tiếp nhận đối với một hiện tượng văn học, từ góc độ lịch sử, đều là những dữ liệu bình đẳng, cho phép chúng ta hình dung về phong khí văn chương của một thời đại, một giai đoạn. Do đó, Bích khê và những di sản của lịch sử tiếp nhận Bích Khê ở hai miền sẽ tiếp tục có cơ hội được khảo sát trong đời sống văn học Việt Nam sau khi đất nước thống nhất (1975).

  • Tiếp nhận Bích Khê sau 1975

    Sau 1975, đất nước thống nhất, Bích Khê cũng như Thơ mới có điều kiện để được nghiên cứu toàn diện hơn. Tuy nhiên, những thành tựu nghiên cứu về thi sĩ này chỉ thực sự đáng ghi nhận từ sau đổi mới (1986). Công trình đầu tiên khởi động quá trình tiếp nhận trở lại Bích Khê chính là tuyển tập Thơ Bích Khê, do Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình ấn hành năm 1988, với lời giới thiệu Thơ Bích Khê của Chế Lan Viên. Trong bài này, Chế Lan Viên nhận thấy những màu sắc của “hội hoạ”, “âm nhạc”, “vũ điệu”, “nhiếp ảnh”, “điêu khắc”, sự ảnh hưởng phương Tây, nguồn gốc phương Đông của Bích Khê. Cũng từ đó, tác giả chỉ ra “đường bay đẹp”, “hơi thở riêng” của Bích Khê. Phần lớn của tiểu luận này nói về kỹ thuật duy tân của Bích Khê. Vốn là một người thông minh, tài hoa và giàu suy tưởng, Chế Lan Viên đã phân tích các “kỹ thuật” trong thi ca của Bích Khê để tạo nên hiệu quả về màu sắc, âm thanh, nhạc điệu: “Khê làm kỹ thuật ghê lắm… chế tạo rất có ý thức”. Khi nhìn về miền Nam những năm trước 1975, Chế Lan Viên cho rằng: “cái chế độ Sài Gòn làm rùm beng về anh, về Hàn Mặc Tử”. Cũng từ bài viết của Chế Lan Viên, nhắc tới thái độ của Hoàng Trung Thông, Vũ Quần Phương đối với việc xuất bản tuyển tập Bích Khê, cho thấy tinh thần đối mới, rộng mở trước các hiện tượng văn học của quá khứ42. Cùng năm 1988, tại Pháp, Phạm Đán Bình hoàn thành luận án Thi nhân Việt Nam và thơ ca Pháp 1932 – 1945, trong đó đánh giá: “Thơ Bích Khê nhằm kiến tạo một nghệ thuật tổng hợp kiến trúc – vũ – hoạ - nhạc”43.

   Năm 1993, công trình Thơ mới, những bước thăng trầm của Lê Đình Kỵ đánh dấu sự trở lại một cách bài bản của việc nghiên cứu Thơ mới trong đó có Bích Khê. Trong công trình của mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ thái độ cởi mở đối với Bích Khê, khi mà trước đó, Chế Lan Viên dù làm tuyển tập, viết lời giới thiệu về Bích Khê vẫn còn thấy phân vân, băn khoăn, “dè dặt”44. Tiến trình tiếp nhận Bích Khê ngày càng trở nên phong phú và sôi động. Rất đáng chú ý là những bài viết của Nguyễn Giao Thủy (Những giá trị văn học còn lại, Báo Phụ nữ Việt Nam, 03/4/1993), Thanh Thảo (Chàng bước tới, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 26/01/1997), Hoàng Thiệu Khang (Trong thơ mới chưa có “Bích Khê”, Tạp chí Xưa và Nay, 1/1997)45, Đỗ Lai Thúy (Bích Khê, sự thức nhận ngôn từ)46, Phạm Xuân Tuyển(Về những nét trùng hợp giữa ba nhà thơ: Hàn Mạc Tử - Bích Khê – Chế Lan Viên)47, Hoài Anh (Bích Khê – Hành trình xa xăm quay trở lại nguồn)48, Trúc Thông (Bích Khê, một cảm nhận, Phụ bản thơ quý II – 2003, báo Văn nghệ), Hoàng Phủ Ngọc Tường (Nhìn lại Bích Khê ngọn thi sơn xanh thẳm, Phụ bản thơ số 10, tháng 4/2004, báo Văn nghệ)49… Sự tiếp nhận trở lại hiện tượng Bích Khê cũng được hiện diện một cách hệ thống, có phương pháp trong một số luận án về Thơ mới (một số sau đó xuất bản thành những chuyên luận uy tín) đầu những năm 2000: Kết cấu thơ trữ tình (Phan Huy Dũng, Luận án Tiến sĩ, 1999), Giọng điệu trong thơ trữ tình (Nguyễn Đăng Điệp, chuyên luận, Nxb Văn học, 2002), Ba đỉnh cao thơ mới (Chu Văn Sơn, Nxb Giáo dục, H, 2003), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới (Nguyễn Hữu Hiếu, Luận án Tiến sĩ, 2004),…

   Đáng chú ý nhất là năm 2005 với sự ra đời của cuốn sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả về Bích Khê. Sự xuất hiện của cuốn sách này như là một nỗ lực tập hợp những nghiên cứu rời rạc về Bích Khê, tạo nên cái nhìn tập trung hơn về hiện tượng thơ ca này50. Đầu năm 2006, nhìn Bích Khê trong tương quan với tổng trình phát triển của Thơ mới, Lại Nguyên Ân trong bài Tinh huyết của Bích Khê và giai đoạn phát triển thứ hai của Thơ mới đã cho rằng, tập thơ này của thi sĩ đánh dấu sự vận động sang chặng thứ hai của Thơ mới. Chặng thứ nhất là thơ lãng mạn với các thi sĩ gắn với Tự lực văn đoàn (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận,…) chặng sau là thơ tượng trưng và men vào siêu thực, le lói từ Gái Quê, rõ dần ở Điêu tàn và thuần túy tượng trưng ở Tinh huyết. Tinh huyết là dấu hiệu rõ nhất minh chứng thơ trữ tình Việt Nam 1932 – 1945 đã bước chân sang địa hạt tượng trưng51. Tháng 2/2006, Hội thảo Bích Khê và thơ Bích Khê đã được tổ chức ngay trên quê hương thi sĩ. Từ hội thảo này, giới nghiên cứu – phê bình đã đưa thêm những bằng chứng, khảo chứng, những tiếng nói khẳng định vai trò, tầm vóc của Bích Khê đối với Thơ mới nói riêng và nền thơ trữ tình Việt Nam nói chung52. Có thể điểm qua một số tham luận có chất lượng như: Ngôn ngữ thân thể, một phương diện văn hoá – trường hợp Bích Khê (Trần Đình Sử), Người đương thời thơ mới bàn về thơ Bích Khê (Nguyễn Hữu Sơn), Bích Khê trong Trường thơ loạn (Phạm Phú Phong), Edgar Poe, Chủ nghĩa tượng trưng Pháp và Bích Khê (Nguyễn Hồng Dũng),… Tháng 4/2006, Tạp chí Nghiên cứu Văn học tổ chức chuyên đề về Bích Khê, có tuyển một số bài từ hội thảo này: Những đóng góp của Bích Khê vào nền thơ ca Việt Nam hiện đại (Lê Hoài Nam), Bích Khê và cách đánh giá của Hoài Thanh (Hoàng Thị Huế), Đi vào cõi thơ Bích Khê (Bích Thu), Bích Khê, “Thi sĩ thần linh”, “Thi sĩ lõa thể” (Phạm Xuân Nguyên), Bích Khê qua cái nhìn của nhà văn, nhà lí luận và phê bình Miền Nam (Trần Hoài Anh)53,… Trong những bài viết này, sự đánh giá về Bích Khê trên các phương diện thi pháp, sự cách tân, “Duy tân” về quan niệm thẩm mĩ, thi ca nghệ thuật, các khảo sát về tính dục, cảm xúc, nhạc tính, ngôn ngữ, hình ảnh, chất tượng trưng, nguồn ảnh hưởng, những quan điểm, nhận định của giới phê bình, nghiên cứu về Bích Khê qua các thời kỳ, vai trò của Bích Khê trong việc thúc đẩy Thơ mới Việt Nam vận hành vào quỹ đạo hiện đại hóa được chú ý.

   Sau hội thảo về Bích Khê diễn ra trên quê hương núi Ấn sông Trà, Bích Khê ngày càng thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Hàng loạt chuyên luận, luận văn, khoá luận, tiểu luận đã ra đời, chứng minh sức lôi cuốn và sức sống mãnh liệt của hiện tượng thơ ca này: Nguyễn Toàn Thắng (Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb Giáo dục, 2007), Lê Thị Anh (Thơ mới với thơ Đường, Nxb Văn học, 2007), Nguyễn Thanh Tâm (Loại hình Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2015)… Đây không phải là những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Bích Khê, tuy nhiên Bích Khê là một phần quan trọng trong sự triển khai vấn đề của các chuyên luận này. Nghiên cứu về Hàn Mặc Tử và nhóm Bình Định cũng như việc triển khai những so sánh giữa Thơ mới với Thơ Đường, về những tương đồng mang tính loại hình không thể không chú ý đến Bích Khê trong tư cách là một đại diện tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Tiếp tục nghiên cứu có tính bài bản về Bích Khê có thể nhắc đến khóa luận tốt nghiệp đại học của Hoàng Thị Quyên (Bích Khê và bước chuyển của Thơ mới từ lãng mạn sang tượng trưng)54, luận văn Thạc sĩ Lê Thị Vân Anh (Nghệ thuật sử dụng biểu tượng trong thơ Bích Khê)55. Cả hai luận văn này đều đề cao phẩm tính tượng trưng trong thơ Bích Khê. Sự dịch chuyển loại hình thơ trong phong trào Thơ mới từ cổ điển sang lãng mạn, tượng trưng có công rất lớn của Bích Khê. Tìm lại những công trình, bài viết nghiên cứu về Bích Khê những năm qua, chúng ta còn bắt gặp những bài viết của Thụy Khuê (Thi pháp Bích Khê, Nhạc và họa trong thơ Bích Khê), Phạm Xuân Nguyên (Bích Khê, Thuần túy và tượng trưng), Đặng Thị Ngọc Phượng (Bích Khê, nhà thơ của đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ), Mai Bá Ấn (Bích Khê và thơ tượng trưng), Hoài Nam (Tinh huyết của Bích Khê là một trong những tập thơ làm nên lịch sử), Trần Tuấn (Chính thơ đã giết Bích Khê) và nhiều bài viết khác được đăng tải trên Website http://bichkhe.org và một số trang mạng khác. Những bài viết trong khoảng mươi năm lại đây cho thấy vị thế của Bích Khê trong đời sống văn học. Các khía cạnh của nghệ thuật thơ ca như ngôn ngữ, khuynh hướng – loại hình thơ, các vùng mĩ cảm ưu trội hay nhiệt hứng thi ca, kể cả những vấn đề trước đây vốn bị “dè dặt” nay đã được bàn đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, tất cả đó vẫn chưa phải đã nói lên hết những gì đã có, đang có nơi Bích Khê. Sự trở lại dường như vẫn cần thêm những xác tín, “Hình như vẫn còn gì nữa” (Hoài Thanh) và đó là cơ hội cho những người đến sau56.

  • Kết luận

            Lịch sử tiếp nhận qua 100 năm cho thấy tầm vóc, tính có vấn đề và giá trị của hiện tượng văn học Bích Khê. Là thi sĩ tiêu biểu của thơ trữ tình hiện đại Việt Nam, Bích Khê luôn hàm chứa sự vẫy gọi, thách thức giới nghiên cứu và độc giả nói chung. Nhìn lại 100 năm của Bích Khê, mỗi giai đoạn có những đặc trưng khác nhau cho thấy tinh thần, học phong, “tầm đón đợi”, thị hiếu của thời đại và “cộng đồng diễn giải”. Của Xê-da sẽ phải trả lại cho Xê-da, cũng như, những gì thuộc về Bích Khê cùng di sản nghiên cứu, tiếp cận Bích Khê qua các giai đoạn sẽ không thể bị lãng quên hay chìm khuất trong dòng chảy bất tận của thời gian. Tiếp nhận Bích Khê, nghiên cứu sự nghiên cứu về Bích Khê, tiếp nhận sự tiếp nhận Bích Khê hay khảo sát sự dịch chuyển diễn ngôn nghiên cứu, phê bình Bích Khê, nhận thức lại di sản từ quá khứ, xác lập những điểm nhìn mới từ điều kiện của hiện tại,… là những động thái và hy vọng mà chúng ta cần, đang và sẽ có cho một hình dung đầy đủ hơn trong tương lai về lịch sử thơ ca, lịch sử văn học Việt Nam57.

                                                                                                                      N.T.T

Chú thích

  • Trương Đăng Dung: Tác phẩm văn học như là quá trình. Nxb. Khoa học Xã hội, H., 2004, tr. 400.
  • Trương Đăng Dung, Sđd, tr. 379.
  • Chú thích của Hàn Mặc Tử: “Xem Tiếng Dân ta thấy Bích Khê đã được hoan nghênh về thơ cũ 1931 – 1936”, trong “Bích Khê – Thi sĩ thần linh”, Tinh huyết (Tủ sách Việt Nam danh tác). Nxb. Hội Nhà văn, Công ty Văn hoá & Truyền thông Nhã Nam, H., 2015, tr. 8.
  • Lại Nguyên Ân: “Dư luận về thơ Bích Khê trên sách báo Việt trước 1945”. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm (1916 - 2016), Nxb. Hội Nhà văn. H., 2016, tr. 210.
  • Phan Khôi: “Báo Tiếng dân nói sai, tôi không hề công kích thơ mới”. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm (1916 - 2016), Sđd, tr. 237.
  • Tiếng dân, số 1590, 1594, 1595, 1602; Dân báo, số, 605, 627, 628. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm, Sđd, tr. 236-241.
  • Lê Tràng Kiều: Dẫn nhập nhân đăng bài Hoàng Hoa. Tiểu thuyết thứ Năm. số 30, ngày 11 Mai 1939. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 220.
  • Lê Tràng Kiều: “Một lời khuyên”. Tiểu thuyết thứ Năm. số 32, ngày 25 Mai 1939. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 221.
  • Vân Hạc: “Thi thoại”, Công luận, số 7318, ra ngày 6-1-1937, tr.5.
  • Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 232.
  • Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 226.
  • Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 234.
  • Hoài Thanh, Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam. Nxb. Văn học. H., 2000, tr. 328- 330.
  • Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Sđd, tr. 235.
  • Kiều Thanh Quế: “Nhân đọc “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân”. Tri tân, số 134, tháng 3-1944, tr.10-11+14.
  • Vũ Bội Liêu: Thanh nghị, số 24, ra ngày 1-11-1942, tr.15.
  • Vương Trí Nhàn: Hàn Mặc Tử, Hôm qua và Hôm nay. Nxb. Hội Nhà văn, tái bản, H., 1996.
  • Hoài Thanh: “Một vài ý kiến về phong trào Thơ mới và quyển Thi nhân Việt Nam”. Tuyển tập Hoài Thanh, tập 2. Nxb. Văn học. H., 1982, tr. 294 – 306.
  • Xuân Diệu: “Những bước đường tư tưởng của tôi”, in trong Xuân Diệu toàn tập. Nxb. Văn học. H., 2001, tr. 179 – 181.
  • Phan Cự Đệ: Phong trào “thơ mới” 1932 – 1945. tái bản. Nxb. Khoa học Xã hội. H., 1982, tr. 51, 52.
  • Phan Cự Đệ: Sđd, tr. 67.
  • Phan Cự Đệ: Sđd, tr. 225.
  • Phan Cự Đệ: Sđd, tr. 15.
  • Phan Cự Đệ: Sđd, tr. 15.
  • Minh Huy: Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam 1932 – 1962. Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1962.
  • Minh Huy: Sđd, tr. 111.
  • Minh Huy: Sđd, tr. 114.
  • Minh Huy: Sđd, tr. 122.
  • Minh Huy, Sđd, tr. 127.
  • Nguyễn Tấn Long: Việt Nam thi nhân tiền chiến. quyển hạ. Sống mới xuất bản. Sài Gòn, 1968.
  • Tam Ích: Ý văn I. Lá bối xuất bản. Sài Gòn, 1967, tr. 145 (tiểu luận Bích Khê và thơ tượng trưng được viết từ 1964).
  • Tam Ích: Sđd, tr. 155.
  • Đinh Hùng: “Tiếng thơ Bích Khê”, rút từ Ngày đó có em. Giao điểm xuất bản. Sài Gòn, 1967. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm. Sđd, tr. 268.
  • Đinh Cường: “Nhạc và Hoạ trong thơ Bích Khê”. Tạp chí Văn (Chủ nghiệm Đỗ Đình Vượng, Thư ký Trần Phong Giao). số 64, Sài Gòn, ngày 15/8/1966. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm. Sđd tr. 266.
  • Lê Thị Ngọc Sương: “Nhân đọc hồi ký của anh Hồ Hữu Tường”. Tạp chí Văn. số 66, Sài Gòn, ngày 15/9/1966. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi, Bích Khê một trăm năm, sđd, tr. 136.
  • Phạm Hoà Việt: “Bích Khê: Dòng thơ, Khoảng thơ và Thời gian”. Tạp chí Văn học (chuyên đề: Bích Khê: nhà thơ tượng trưng). số 194, Sài Gòn, ngày 20/11/1974, tr. 43 – 50.
  • Lê Huy Oanh: “Tinh huyết của Bích Khê”. Văn học. số 194, Tlđd, tr. 51 – 70.
  • Phan Kim Thịnh: “Thế giới tượng trưng Bích Khê”. Văn học. số 194, Tlđd, tr. 73.
  • Vĩnh Lộc: “Thi nhân với mùa thu”. Văn học (chuyên đề “Thi nhân và mùa thu). số 154, ngày 1/9/1972, tr. 33.
  • Tôn Thất Bút: “Thi sĩ Baudelaire thần tượng của thế giới thi ca đã ảnh hưởng đến các nhà thơ tiền chiến Việt Nam như thế nào?”. Văn học (giai phẩm ngày 1/5/1973), tr. 34.
  • Châu Hải Kỳ: “Nhân đọc “Đời Bích Khê” của Quách Tấn rút vài hình ảnh về Hàn Mặc Tử”. Văn học. số 196, ngày 20/12/1974, tr. 17 – 26.
  • Chế Lan Viên: Thơ Bích Khê. Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình, 1988. Xem Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích Khê một trăm năm. Sđd, tr. 386 – 400.
  • Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi: Bích khê một trăm năm, Sđd, tr. 400.
  • Nhiều tác giả: Thơ mới, tác phẩm và dư luận. Nxb. Văn học. H., 2002, tr. 428.
  • Nhiều tác giả: 70 năm đọc Bích Khê. Nxb. Văn học. H., 2005.
  • Đỗ Lai Thúy: “Bích Khê, sự thức nhận ngôn từ”, in trong Con mắt thơ. Tái bản. Nxb. Giáo dục. H., 1997.
  • Phạm Xuân Tuyển: Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử. Nxb. Văn học. H., 1997.
  • Hoài Anh: Chân dung văn học. Nxb. Hội Nhà văn, H., 2001.
  • 70 năm đọc thơ Bích Khê, Sđd.
  • 70 năm đọc thơ Bích Khê, Sđd.
  • Lại Nguyên Ân: “Tinh huyết của Bích Khê và giai đoạn phát triển thứ hai của Thơ mới”. Tạp chí Thơ. Hội Nhà văn, H., 1/2006.
  • Bích Khê, Tinh hoa, Tinh huyết. Nxb. Hội Nhà văn. H., 2008.
  • Viện Văn học: Nghiên cứu Văn học (chuyên đề về Bích Khê). số tháng 4/2006.
  • Hoàng Thị Quyên: Bích Khê và bước chuyển của Thơ mới từ lãng mạn sang tượng trưng. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. H., 2008.
  • Lê Thị Vân Anh: Nghệ thuật sử dụng biểu tượng trong thơ Bích Khê. Đại học Vinh. 2010.
  • Trong một động thái tiếp cận khác, Bích Khê trở thành đề tài, cảm hứng cho những sáng tác thơ ca nhạc hoạ. Xem Bích Khê một trăm năm. Sđd, tr. 883 – 956.
  • Để có thể hoàn thành bài viết này, chúng tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học), đã cung cấp nhiều tư liệu quý hiếm về Bích Khê.
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
Quảng cáo
congnhan12345
Thống kê truy cập
Đang truy cập: 5
Trong ngày: 90
Trong tuần: 445
Lượt truy cập: 381299

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN ĐÃ GIỚI THIỆU!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NGHỆ SĨ ĐIỆN ẢNH, NHÀ VĂN CẦM SƠN! RẤT NHIỀU BỨC ẢNH CỦA NGÀY HÔM ĐÓ ĐÃ CÙNG VỚI BÀI NÓI CỦA TÔI LÀM NÊN KHÔNG KHÍ TƯƠI VUI, HÀO HỨNG CỦA BUỔI RA MẮT SÁCH! CHÚC MỪNG NHÀ THƠ LÊ TUẤN LỘC!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CHÚC MỪNG TS NHÀ THƠ LÊ TUẤN LỘC VỚI TẬP THƠ ĐỘC ĐÁO, IN ĐẸP!

 

VŨ NHO 085 589 0003

BÁI PHỤC BÀ MÂY!

 

VŨ NHO 085 589 0003

Thuộc loại "chuyện bây giờ mới kể" đây! Cám ơn tác giả! Mượn lời bà SUỐI để nói về bà MÂY: "Bái phục bà MÂY" ! Haiza!

 

VŨ NHO 085 589 0003

CÁM ƠN NHÀ VĂN CẦM SƠN VÀ BAN BIÊN TẬP ĐÃ ĐĂNG BÀI VIẾT NHÂN DỊP NHÀ THƠ NGUYỄN HUY HOÀNG RA MẮT TUYỂN THƠ VÀ TRUYỆN KÍ TẠI HỘI TRƯỜNG HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM!

 
Xem toàn bộ
BẢN QUYỀN THUỘC CHI HỘI NHÀ VĂN CÔNG NHÂN
Điện thoại liên hệ: 0913 269 931 - 0964 131 807
Email: soncam52@gmail.com
ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM VÀ TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- Chịu trách nhiệm xuất bản: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc - Chủ tịch Chi hội Nhà văn Công nhân.
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà văn Cầm Sơn - Trưởng Ban Truyền thông Chi hội Nhà văn Công nhân.